Skip to main content
🖤Người yêu chết đi sống lại là Tà thần –
🖤Chương 28: Bí mật trong nhà hát (1)

Nhà hát lớn Hồng Thành tọa lạc tại khu vực phồn hoa nhất thành phố.

Nơi đó là trung tâm thành thị, xe cộ tấp nập, người đi lại đông đúc, hai bên đường là những trung tâm thương mại với mặt kính sang trọng, khí thế hiện đại tràn ngập khắp nơi.

Dù nghĩ thế nào thì nơi đây cũng chẳng có tí liên hệ nào với nơi âm u rùng rợn như Thiên Thọ Đường.

Triệu Nghệ Thành không nhịn được lại hỏi Ôn Diễn: “Cậu chắc chắn là chỗ này thật hả?”

Ôn Diễn đáp: “Quan lại Ông Tử Huyền, ở cuối đời từng bị giáng chức về Hồng Thành. Khi ấy ông đã lớn tuổi, trong lòng mang nhiều khổ đau, chẳng bao lâu thì qua đời.”

“Theo các học giả sau này nghiên cứu, vị trí hiện tại của Nhà hát lớn Hồng Thành rất có khả năng chính là nơi chôn cất của ông ấy.”

Triệu Nghệ Thành tròn mắt: “Tôi nhớ Ông Tử Huyền là nhân vật trong sách Ngữ Văn, thi đại học năm đó còn ra đề nữa mà – là nhà văn nổi tiếng thời Bắc Tống, giỏi thư pháp và điêu khắc.”

Ôn Diễn gật đầu bất đắc dĩ: “Đúng vậy. Thật đáng tiếc là chúng ta phải gặp ông ấy theo cách này.”

Lúc ấy hoàng hôn đã buông xuống, toàn bộ đường phố dần lên đèn, những bức tường kính sáng rực, lấp lánh rực rỡ.

Thế nhưng trong sự phồn hoa ấy, một luồng khí lạnh lẽo, bất an lại đang lặng lẽ lan tỏa.

Nhà hát lớn lẽ ra phải là công trình nổi bật của Hồng Thành, giờ đây lại như một con quái vật âm thầm ẩn mình trong bóng tối, chờ hai người tự chui đầu vào lưới để rồi nghiền nát họ thành máu, thịt và xương cốt kêu răng rắc.

Ngay khi Ôn Diễn và Triệu Nghệ Thành đặt chân vào khu vực quanh nhà hát, một cảm giác âm lạnh lạ thường lập tức chạy dọc từ lòng bàn chân lên đến đầu.

Họ như đã bước qua một ranh giới vô hình, tiến vào vùng cấm nguy hiểm, hoàn toàn cách biệt với thế giới náo nhiệt bên ngoài.

Phía trước là hai cánh cửa pha lê lớn của nhà hát, đóng chặt như cánh cổng địa ngục, lặng lẽ chờ ai đó mở ra.

Không ai biết sau cánh cửa ấy sẽ là ác quỷ kinh hoàng tràn ra, hay chính họ sẽ bị hút vào và trở thành một phần trong đó.

Triệu Nghệ Thành không ngừng day thái dương, mặt mày nhăn nhó: “Đau đầu quá… cảm giác như huyết áp tôi tăng cao, muốn nổ não luôn ấy.”

Ôn Diễn an ủi: “Không đâu, nếu có tan vỡ thì chỉ là tinh thần của cậu thôi.”

Triệu Nghệ Thành trợn mắt: “Cảm ơn nha, cậu an ủi hay thật đấy.”

Ôn Diễn nói: “Lần này chúng ta vào, có thể sẽ không trở ra được đâu. Giờ hối hận vẫn còn kịp.”

Triệu Nghệ Thành mặt trắng bệch: “Làm nghề báo như tôi, giác ngộ đó tôi vẫn có.”

Ôn Diễn gật đầu: “Tùy cậu thôi.”

Hai người nhắm mắt lại, mỗi người một bên, dùng sức đẩy cánh cửa lớn.

Thế nhưng trái với tưởng tượng về một nơi luyện ngục đáng sợ, bên trong nhà hát hoàn toàn không kinh hoàng như họ nghĩ.

Trái lại còn vô cùng náo nhiệt và lộng lẫy.

Sảnh lớn được trang trí chủ yếu bằng hai màu đỏ và vàng kim, ba tầng khán đài đông nghịt người, chật kín không còn chỗ trống.

Vô số hình người màu đen ngồi ngay ngắn trên ghế nhung đỏ, đồng loạt há miệng tươi cười, vỗ tay reo hò theo một nhịp điệu rộn ràng.

Tiếng hoan hô vang rền như sấm.

Khi khán phòng yên lặng trở lại, một tấm màn đỏ như máu chầm chậm kéo lên, lộ ra sân khấu nơi những hình người đen đặc bước ra trình diễn.

Từng người mặc y phục sặc sỡ, hoặc giáp trụ long lanh, hòa nhịp cùng tiếng nhạc kim châu ngọc vọng vang lảnh lót.

Một hình người đen mang trang phục quan văn thời Tống bước ra, giọng hát kéo dài, xướng lên:

“Mấy độ hoa đào xuân lại đến, hoa rơi nước chảy chẳng thể ngăn.

Tìm hiểu thiền từ để tự tu, chỉ mong ngồi yên, thoát trần tục.

Phá bỏ vật – ta, không còn gì, ôm lấy vũ trụ một mớ mù.

Giữa tử – sinh, ta thoát tử sinh, tựa như mộng tỉnh mới là linh.”

Da đầu Triệu Nghệ Thành tê rần, run giọng hỏi: “Này là… đang hát cái gì thế?”

Ôn Diễn đáp: “Đây là thơ của Ông Tử Huyền.”

“Ý chính là: chỉ khi nào hiểu được sống chết, vượt qua được cái chết, mới có thể thoát khỏi luân hồi, không còn phải chịu khổ vì sinh tử nữa.”

Triệu Nghệ Thành hơi ngơ ngác: “Hồi đó sách Ngữ Văn bảo thơ ông ấy toàn là thể hiện nỗi thống khổ khi bị giáng chức, sao lại có kiểu thơ thần bí như này?”

Ôn Diễn nói: “Ông ấy rất thích các loại sách huyền học, có giao du với cả danh sĩ, nhà sư, đạo sĩ thời đó. Ông ấy dung hợp cả ba học thuyết Nho, Phật, Đạo vào trong tư tưởng.”

“Cho nên viết mấy câu cảm tưởng như vậy cũng không có gì lạ.”

Trên sân khấu, vở diễn chuyển sang cảnh Ông Tử Huyền tuổi già đau ốm, say mê luyện đan, cuối cùng chết vì bệnh.

Thi thể của ông được đặt vào một chiếc lu lớn, rồi thêm một cái lu nữa đậy lên, dùng dây sắt cố định trên dưới, sau đó trám kín các khe hở bằng bùn đỏ, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài.

Triệu Nghệ Thành dựng tóc gáy: “Cái này là cái gì ghê gớm vậy?”

Ôn Diễn nói: “Đó là di ngôn của ông ấy trước khi mất. Ông muốn xử lý xác mình theo cách đó, chôn thật sâu dưới lòng đất.”

Triệu Nghệ Thành thắc mắc: “Vì sao ông ấy lại làm vậy?”

Ôn Diễn im lặng một lúc rồi nói: “Có lẽ vì ông quá thất vọng với cuộc sống và thế giới này, muốn cắt đứt hoàn toàn mọi mối dây liên kết.”

Năm tháng trôi qua, mọi thứ đổi thay. Chiếc lu phong ấn thi thể cuối cùng cũng vỡ tan. Một điệu nhạc xa xăm vang vọng, “Ông Tử Huyền” lại bước lên sân khấu lần nữa.

Lần này, ông đã biến thành hình dáng thần tiên, như một lão ông đạo cốt tiên phong.

“Biến hóa thành tiên rồi.” Ôn Diễn nói nhỏ.

Nơi ông chôn cất, biến thành một con suối.

Dòng suối màu xanh sẫm tượng trưng được đổ ra từ huyệt mộ, nhanh chóng tràn ngập cả sân khấu.

Tiếp theo, Ôn Diễn và Triệu Nghệ Thành nhìn thấy — chính là hình ảnh quảng cáo quen thuộc của Thiên Thọ Đường.

Người mù cùng người què đi lên núi, uống nước suối nơi này, bệnh tật đều khỏi, thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn.

Sương mù dày đặc lan tràn, cả sân khấu biến thành một cảnh tiên huyền ảo, hiện ra một cung điện nguy nga như điện Quế cung, hoa kỳ lạ mọc khắp nơi, cây quỳnh đung đưa, chốn nào cũng sáng lấp lánh sắc ngọc, khí lành mây lành, cảnh tượng thần kỳ không thể tưởng tượng, còn đẹp hơn cả cực lạc tiên cảnh.

Tất cả “người” ở đó dường như đã thoát khỏi mọi phiền muộn và khổ đau trần thế, đạt đến cảnh giới sáng suốt, thanh tịnh và hạnh phúc.

Họ vừa múa vừa ca, ăn uống no say, ngẩng cổ ngâm nga:

“Lục cái sôi nổi, nhiều ít cái, tận trời tiên tử.

Hẳn là có, Dao Trì thịnh hội, trang điểm đẹp lâm thủy.

Nói chưa lập, thân vưu là huyễn.

Kiếp phù du một thoi qua, mộng hồi người tan.”

Khi điệu múa kết thúc, tất cả họ đồng loạt cúi người chắp tay chào khán giả bên dưới, chỉ thấy xiêm y rực rỡ, cùng cung điện nguy nga đều tan biến không dấu vết.

Sân khấu rộng lớn trở lại trống không, âm nhạc tiên giới cũng trở nên im lặng, cảnh tượng huy hoàng tan biến như bong bóng, không hình, không bóng, không âm thanh, không sắc màu.

Chỉ còn lại “Ông Tử Huyền” lẻ loi đứng ở giữa sân khấu, dùng hai hốc mắt đen trống rỗng đối diện với mọi người.

Triệu Nghệ Thành cố lấy dũng khí chất vấn: “Ông ta… rốt cuộc là thứ gì?”

“Ông Tử Huyền” im lặng một hồi lâu.

Cuối cùng mới kéo giọng dài, nửa khóc nửa than: “Lấy trời đất làm lò, tạo hóa làm thợ. Âm dương là than, vạn vật là đồng!”

Triệu Nghệ Thành tức giận nói: “Tôi nghe không hiểu! Mẹ nó lại là cái kiểu nói chuyện khó hiểu này! Chỉ số thông minh của tôi vốn không cao!”

Ôn Diễn giải thích: “Trời đất là cái lò lớn, âm dương là lửa, tạo hóa là người rèn, thế gian vạn vật đều bị nung luyện trong đó. Con người sống trên đời, cho nên phải chịu khổ.”

“Giải thích hay.” “Ông Tử Huyền” gật đầu tán thưởng: “Việc ta muốn làm, chẳng qua là thành đạo, cứu khổ cứu nạn, khiến mọi người thoát khỏi nỗi thống khổ vô tận, sống chan hòa, kính trọng nhau, vĩnh viễn hạnh phúc.”

Triệu Nghệ Thành tức giận quát: “Thôi đi, ông vô cớ hại bao nhiêu người như vậy, còn dám nói mấy lời đó!”

“Vô cớ sao?” “Ông Tử Huyền” cười lạnh: “Trên đời này không có kết quả nào là vô nguyên do. Người già muốn sống thọ, người bệnh muốn lành bệnh, là ta cứu họ, để họ được giải thoát khỏi đau đớn bệnh tật.”

Ông ta chỉ vào Ôn Diễn: “Ngươi, người yêu mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi, chỉ có thể nhìn hắn chết dần.”

Rồi quay sang Triệu Nghệ Thành: “Còn ngươi…”

Triệu Nghệ Thành lập tức ngắt lời: “Tôi làm sao?!”

“Ông Tử Huyền” nhìn cậu ta, cười lạnh lùng và đầy thương hại.

“Người sống trong đời chẳng khác nào ở giữa bụi gai. Tâm không động thì không bị thương. Nhưng một khi lòng động, thì thân thể sẽ đau, xương cốt sẽ gãy. Đó là cảm nhận về tất cả nỗi đau của thế gian.”

“Còn ta, tuổi già mắc bệnh nặng, cố gắng tu luyện nhưng không kéo dài được tuổi thọ. May thay, nay ta đã thành tiên, thoát khỏi cõi trần.”

“Những người kia, hoặc cô đơn, hoặc không nơi nương tựa, hoặc nằm liệt giường, nhìn cảnh mà sinh tình. Ta sao có thể làm ngơ?”

Triệu Nghệ Thành lớn tiếng phản bác: “Rõ ràng là ông lừa họ, biến họ thành quái vật!”

“Thì đã sao?” “Ông Tử Huyền” ngửa mặt cười lớn: “Giờ họ mạnh khỏe, không thoải mái hơn trước sao? Họ sống như người một nhà, chẳng phải nhẹ nhõm hơn sao?”

“Khi còn là người, họ vất vả cả đời, nuôi con, sống chẳng hưởng gì. Giờ được siêu thoát, sống sung sướng, vậy là tốt rồi.”

Một lần nữa, rèm sân khấu từ từ hạ xuống, tiếng vỗ tay vang rền.

Trong tiếng nhạc ù ù, những người mặc áo liệm đỏ thẫm thêu chỉ vàng đứng đó,hát vang một khúc《 Ode an die Freude》

“Dòng suối thánh trong sáng tuyệt đẹp, ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp đất trời.

Chúng ta tràn đầy nhiệt huyết, bước vào điện thánh của ngài.

Sức mạnh của ngài xóa bỏ mọi khác biệt,

Dưới ánh sáng của ngài, mọi người kết thành anh em…”

Khúc nhạc biến tấu hoành tráng, mang sắc thái tôn giáo uy nghiêm. Dù có những âm tiết kỳ dị thay thế “Nữ thần vui sướng”, nhưng ánh sáng chói lọi của bài hát vẫn không bị lu mờ, khí thế hào hùng vẫn vẹn nguyên.

Não bộ run rẩy dữ dội.

Không phải niềm vui thực sự.

Là niềm vui ngụy trang.

Là niềm vui thần thánh.

Là niềm vui trống rỗng.

Là niềm vui ngắn ngủi.

Là niềm vui đau đớn.

Một mớ cảm xúc phức tạp không thể đếm xuể, không thể phân tích rõ, quấn quýt rối ren, tràn qua từng nếp gấp trong não người.

Trên mặt mỗi người, đều là nụ cười rực rỡ giống hệt nhau. Trong tay họ, là di ảnh, tất cả đều cười thật to trong ảnh.

“Các ngươi cũng đến đây đi.” “Ông Tử Huyền” vươn tay về phía hai người: “Sinh lão bệnh tử, yêu thương chia ly, oán hận gặp lại, cầu mà không được, ngũ uẩn* dậy sóng, nhân gian mênh mông, chúng sinh đều khổ.”

*Ngũ uẩn bao gồm năm yếu tố cấu thành con người bao gồm:

+ Sắc uẩn: chỉ sự nhận biết mình có thân và sáu (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.

+ Thọ uẩn: toàn bộ các , cảm nhận sự thay đổi chung quanh, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.

+ Tưởng uẩn: là nhận biết sự khác biệt, như là màu này khác màu kia, mùi này khác mùi kia.

+ Hành uẩn: Hành là ý định, toan tính, suy tư, cân nhắc trước 1 quyết định. Hành bao gồm tất cả các chủ tâm trước khi một hành động được hình thành. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác. (Gồm Thân hành, Khẩu hành, Ý hành)

+ Thức uẩn: là sự nhận thức nhờ mặc định, mặc định cái này chua, mặc định cái kia đắng, mặc định cái nọ màu đỏ, mặc định cái kia nóng, cái này lợi, cái kia không lợi… Đây cũng là bước chuyển tiếp của tưởng uẩn và hành uẩn, từ sự cảm nhận sự khác biệt rồi suy tư cân nhắc xem mức độ khác biệt như thế nào, cho đến định nghĩa sự khác biệt bằng những danh từ hay tên gọi cho từng sự vật, sự việc, hiện tượng.

“Chỉ có chứng đạo, mới có thể giải thoát, từ đó không còn già, không còn bệnh, không còn chết, mãi mãi đắm chìm trong niềm vui vô thượng.”

Nếu có thể rời xa khổ đau, sống không lo sợ, thì đúng là rất tuyệt – Ôn Diễn nghĩ.

Nhưng cái giá phải trả là trở thành một cái xác không hồn, không cảm xúc, không tri giác.

Chỉ khi là một cái xác không hồn, mới có thể mơ một giấc mộng không bao giờ tỉnh.

Cậu nhớ lại giấc mơ khi kết hôn với Cổ Điệp Dị Thần – trong mộng, cậu và Giang Mộ Li lại trở về thời gian hạnh phúc năm xưa.

Cậu thật sự rất muốn giấc mộng đó không bao giờ kết thúc.

Nhưng nếu làm vậy thì những chuyện cậu từng trải qua với Giang Mộ Li, những ngọt ngào khi gặp lại lúc còn sống, và nỗi đau chia ly khi hắn chết… tất cả đều trở thành trò cười.

Hạnh phúc dày đặc đó, nếu không thật, thì vô nghĩa.

Giang Mộ Li đã chết, nhưng không phải chia tay với cậu.

Cậu muốn Giang Mộ Li thực sự tồn tại, dù còn sống hay đã chết.

“Ông căn bản không phải Ông Tử Huyền.” Ôn Diễn chậm rãi nói: “Ông chỉ là một kẻ giả mạo, một quái vật chiếm đoạt thân xác của Ông Tử Huyền. Ông Tử Huyền chân chính sẽ không làm ra chuyện đáng hổ thẹn thế này, sẽ không hạ thấp chính mình như vậy.”

“Ông Tử Huyền” rõ ràng bị chọc giận.

Cơn giận ấy giống như một người bị đá nhỏ làm đau chân – dù khó chịu, nhưng chỉ cần đá văng nó đi là xong.

Huống chi, trong mắt nó, Ôn Diễn thật quá yếu đuối, lại quá đáng thương.

Trong thế giới của nó, ngay cả trong loài người, Ôn Diễn cũng là kẻ quá nhỏ bé.

Nếu linh hồn của con người bình thường ví như một que diêm đang cháy, thì linh hồn của Ôn Diễn chính là một que diêm sắp tắt.

Nó cũng không dám tin, làm sao lại có sinh vật nào có linh hồn yếu ớt đến mức đó. So với những ông lão hay bà lão đang thoi thóp vì bệnh tật, thì Ôn Diễn càng giống như người có thể chết bất cứ lúc nào.

Chỉ là, đối với những thực thể mạnh mẽ vượt trên cả loài người như nó thì chuyện nhỏ như vậy chẳng đáng để bận tâm một chút nào.

Cũng giống như việc bạn nhìn thấy một con kiến đang chuyển nhà bên đường, cùng lắm cũng chỉ liếc mắt một cái, chẳng ai rảnh rỗi mà suy nghĩ sâu xa gì.

Khi “Ông Tử Huyền” vung cây phất trần lên, một con quái trùng màu đen lập tức vỗ cánh lao về phía Ôn Diễn với tốc độ vượt mức bình thường.

Nếu không có gì bất ngờ xảy ra thì chỉ giây sau, chàng trai trẻ gầy gò và nhợt nhạt kia cũng sẽ giống như những người khác trên sân khấu – ý thức bị chiếm đoạt, thân xác trở thành bữa ăn cho loài sâu độc kia.

Xuy.

Không ai ngờ rằng, con trùng kia còn chưa kịp chạm vào Ôn Diễn thì đã hóa thành một làn khói đen.

“Cái… quái gì thế?”

Triệu Nghệ Thành kinh ngạc đến mức mắt như muốn rớt ra ngoài.

“Ôn Diễn, không nhìn ra đấy, cậu cũng có huyết thống kỳ lân à?”

Ôn Diễn cạn lời: “Cậu đọc tiểu thuyết trộm mộ nhiều quá rồi, sao không hỏi tôi có phải là hậu nhân nhà họ Trương không?”

“Không phải chứ, sao con quái trùng đó lại sợ cậu vậy?”

“Tôi quanh năm suốt tháng đều bị muỗi bu, nên ngày nào cũng phải bôi chút dầu gió đuổi muỗi lên người…”

“Đây là con muỗi á?!?” Triệu Nghệ Thành tức đến muốn chửi thề.

Ôn Diễn siết chặt lọ dầu gió trong túi, có lẽ đây thật sự là vũ khí duy nhất của cậu.

“Ông có thể thả mọi người ra không?” Cậu nhìn thẳng vào “Ông Tử Huyền”, cố gắng giữ giọng điệu không kiêu căng cũng không khúm núm.

“Tuy loài người chúng tôi nhỏ bé yếu đuối, trong mắt các vị – những kẻ vượt trên cả thế giới này – chẳng đáng là gì. Nhưng chuyện của con người, dù là sống hay chết, chỉ có loài người mới có quyền quyết định.”

“Ông Tử Huyền” bị chọc giận.

Một viên đá nhỏ vô tình chạm vào chân cũng có thể rơi xuống vì run sợ.

Viên đá nhỏ ấy nếu có suy nghĩ, biết phản kháng thì không thể khinh thường được.

“Ta muốn biến thế giới đầy đau khổ này thành đại dương của hạnh phúc, tất cả mọi người đều bị một ý chí duy nhất kiểm soát. Chỉ cần hạnh phúc là đủ, không cần suy nghĩ, không cần vùng vẫy, càng không phải chịu đựng những khổ đau của kiếp người!”

Cơ thể của “Ông Tử Huyền” được tạo thành từ vô số con trùng ghê tởm đang bò lúc nhúc, khiến hình dáng của nó trông như một khối đen hỗn loạn méo mó.

Chỉ có phần đầu là nổi bật, trán nó nứt ra thành một cái miệng khổng lồ đỏ như máu.

“Giang Mộ Li… người đó, tên như vậy đúng không? Thể xác hắn rất đặc biệt, có một sức mạnh không thuộc về loài người, là báu vật khó tìm!”

Cái tên Giang Mộ Li còn có sức ảnh hưởng đến tâm trí Ôn Diễn hơn cả chuyện sống chết của chính bản thân.

Cậu lập tức hét lên: “Đó là sức mạnh thần thánh ở quê hương anh ấy để lại! Vị thần đó lợi hại lắm, cả thôn đều thờ phụng! Nếu bị thần phát hiện ông làm hại chúng tôi, kết cục của ông chắc chắn rất thảm!”

“Ông Tử Huyền” cười khinh thường: “Ta còn tưởng là gì ghê gớm, hóa ra chỉ là một tên thần làng quèn.”

Ban đầu, nó còn e ngại trước sức mạnh kỳ lạ kia, nhưng nhờ tên ngốc này buột miệng nói lộ ra, nó giờ không còn gì để sợ nữa.

“Vừa hay, giờ ta hành động có chút bất tiện. Cái thân thể đó, ta sẽ nhận lấy!”

Ôn Diễn không nói hai lời, lao tới đấm cho một phát.

Triệu Nghệ Thành nhăn mặt nhìn theo.

Cú đấm đó, e là còn không bằng đập chết một con muỗi. Ngoài việc chọc giận đối thủ, thì chả có ích gì…

“Cái gì?!”

Chỉ thấy bộ quần áo tiên nhân rực rỡ của “Ông Tử Huyền” bỗng dưng bốc cháy dữ dội, trong tích tắc biến thành tro bụi. Cơ thể nó cũng tan rã theo, vô số con trùng đổ ra như đại quân bò khắp mặt đất rồi lại tụ lại thành hình người.

“Ngươi… ngươi rốt cuộc là cái thứ gì vậy?!”

Giọng “Ông Tử Huyền” đã không còn vẻ ngạo mạn như trước. Lúc này, nó cuối cùng cũng cảm nhận được nỗi sợ khi bị một sức mạnh vượt trên cả bản thân chế ngự.

Triệu Nghệ Thành không hiểu gì, đầu như muốn nổ tung nhưng đành giả vờ tự trấn an. Cậu ta hét lớn: “Chúng tôi chỉ là hai sinh viên bình thường của Đại học Hồng Thành thôi, tinh thần chính nghĩa thôi!”

Cậu ta đâu biết rằng, chàng trai gầy yếu yên tĩnh bên cạnh mình trong mắt “Ông Tử Huyền” giờ đã trở thành một tồn tại còn tà ác và đáng sợ hơn cả nó.

Con kiến vốn nhỏ bé và đáng thương, nhưng nếu bỗng nhiên to như con voi thì đúng là một cơn ác mộng thật sự.

Đùng – một tiếng nổ vang trời, bốn sợi xích sắt đen dày từ trên trời rơi xuống, treo lơ lửng một cái hộp đen lớn giống như quan tài.

Bên trong là Giang Mộ Li.

Đám đen ngòm trong khán phòng bỗng tan tác khắp nơi, hàng ngàn hàng vạn con trùng hợp thành dòng chảy như thác nước, lao về phía quan tài.

Chất đen cũng trào ra từ mắt, tai, mũi miệng của đám người trên sân khấu, còn tiếng đồng ca của họ thì ngày càng to, ngày càng điên loạn.

Kia vốn không phải là khúc 《 Ode an die Freude》 nữa, mà đã trở thành một điệu nhạc bị ô uế, bị vặn vẹo, biến chất, thối rữa, trở thành một chi tiết hiến tế, vùng vẫy giữa trời đất, như một bản thánh ca tiễn đưa linh hồn sinh vật.

Trời đất đảo lộn, âm dương rối loạn, bụi trần vương vấn, đến cả điều tối thiểu là quan tâm cũng chưa thể trọn vẹn.

Chỉ trong chớp mắt, cả nhà hát bị một làn nước đen đặc trào dâng như đại dương bao phủ.

Ôn Diễn thống khổ vô cùng, đau đến mức nghiến răng, đập vào ngực mà không thể bật ra một tiếng kêu thảm thiết.

Không phải vì bị ăn mòn bởi làn nước đen đó, mà là ngay khi cậu chìm đắm vào dòng nước đen đặc ấy, cậu cuối cùng cũng cảm nhận được nỗi khổ của tất cả những người kia.

Sinh, lão, bệnh, tữ, cầu mà không được, oán ghét mà phải gặp, yêu thương mà phải chia ly, tiếng nhạc hỗn độn… Tất cả những nỗi khổ như nước muối đậm đặc, cuồn cuộn thẩm thấu vào thân thể cậu, nhuộm dần linh hồn cậu.

Họ và cậu giống nhau, cậu cũng giống như họ. Hễ là người thì không ai tránh khỏi việc phải chìm trong biển khổ vô tận này.

Rơi xuống.

Rơi mãi không điểm dừng.

Không ngừng rơi.

Ôn Diễn sắp nghẹt thở, cậu ra sức giãy giụa, nhưng tay chân không thể cử động, mọi thứ cậu chạm tới chỉ là vách tường lạnh lẽo và cứng ngắc của chiếc lu.

Phải rồi… bên dưới nhà hát này vốn là nơi Ông Tử Huyền được chôn cất.

Ông Tử Huyền thật sự, lúc còn sống đã chịu đủ mọi đau khổ, đến khi chết đi cũng không được yên nghỉ.

Trong suốt mười năm, bao lần thi cử đều thất bại. Vất vả lắm mới được hoàng đế chọn làm Trạng nguyên, nhưng vận mệnh vẫn cứ trêu đùa ông như một vở hí kịch.

Tân hoàng vừa lên ngôi, bọn gian thần nắm quyền, triều đình thì tham nhũng. Ông bị ép rời khỏi triều đình, phải đi khắp nơi làm tri châu.

Trong thời gian nhậm chức, vì trị dân theo đạo lý Đạo gia “Vô Vi”, ông bị tố là mù quáng, không biết làm gì cả.

Khi đã bảy mươi tuổi, ông lại bị giáng chức, đày đi vùng xa xôi.

Tân hoàng vẫn luôn muốn biên soạn lại một bộ Đạo tạng* vượt qua cả tiền nhân nên ra lệnh thu gom tất cả sách kinh đạo gia trong cả nước, giao cho ông chịu trách nhiệm khắc in bản cuối cùng.

*Đạo tạng: Kho kinh sách của Đạo Giáo

Khi nhiệm kỳ ông kết thúc, công việc khắc bản vẫn đang tiến hành, nhưng triều đình lại điều ông đi nơi khác, ông đành phải chấp nhận tiếp tục làm tri châu, như bao năm qua.

Đây là tâm huyết cả đời ông – bộ sách Đạo giáo này là thành tựu mà ông tự hào nhất trong đời.

Nhưng không thể bảo toàn.

Một phần sách bị chiến tranh thiêu rụi, phần còn lại bị kẻ địch cướp lấy, mang về đất man di.

Dưới thời bị giặc xâm lược, không ai toàn vẹn. Chỉ trong vài năm đã loạn lạc khắp nơi.

Chiến tranh tàn khốc khiến hàng chục năm ông dày công biên soạn cũng tan biến thành tro bụi.

Lúc về già, ông bệnh tật triền miên, thân thể suy nhược, dù có đọc hết hàng vạn cuốn sách cũng không tìm ra phương thuốc cứu mình.

Các vị thần Đạo giáo không thể vì lòng từ bi mà ban ân huệ cho nhân gian, cũng không có đan dược nào giúp con người cải lão hoàn đồng, sống mãi không già.

Một đời người, chỉ là luân hồi từ có đến mất, không cách gì tránh khỏi suy tàn.

Thế gian này, chẳng lẽ chỉ toàn là khổ?

Thân thể đầy cảm giác, tâm trí đầy phiền não, chìm đắm trong bát khổ. Không có đại thánh, ai cứu lấy những tâm hồn ngộ đạo?

*Bát khổ: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ 

Trong lu nước, ông không ngừng tự hỏi câu đó.

Thật lâu, thật lâu sau – đến mức ông quên cả mình từng là ai – ông vẫn không ngừng tự hỏi.

Cuối cùng, ông tìm được câu trả lời.

Ông nguyện hiến thân mình để cứu người, hóa thành dòng suối mát chảy giữa núi non. Dù là khách lữ hành, tiều phu khát nước hay nông dân mệt nhọc, đều có thể uống dòng nước ngọt lành từ ông.

Giải tỏa mệt mỏi, chữa lành bệnh tật, xua tan u sầu.

Cuộc đời ông đã trải qua đủ mọi thăng trầm, từng vô danh, từng hiển hách, từng lang thang đó đây, từng đau bệnh khốn cùng – tất cả đều rèn luyện cho ông bản lĩnh thích ứng mọi hoàn cảnh.

Hơn nữa, khi còn sống vì hoàng đế mà khắc in sách, mấy ngàn cuốn ông đều tự tay đọc, vô tình mà hiểu hết mọi đạo lý chứa trong đó.

Vậy nên, ngay khoảnh khắc ông hiểu được đáp án, ông lẽ ra đã có thể thành tiên, đắc đạo.

Nhưng đúng lúc ấy, một con trùng đen sì chui qua khe giữa hai miệng lu, lặng lẽ bò vào.

Nó nói với ông rằng nó là một tồn tại siêu việt hơn loài người. Vì không nỡ nhìn ông cứ mãi bị che giấu chân tướng, nên mới tốt bụng tiết lộ một phần sự thật về thế giới này.

“Dù ông có hiến dâng thân xác của mình, cũng chẳng khác gì Tinh Vệ xúc từng ngụm đất đổ vào biển, làm sao lấp đầy biển khổ vô tận. Các vị thần Đạo giáo không thể cứu nhân gian, càng không thể giải thoát chúng sinh khỏi bát khổ.”

Ông hỏi, vì sao?

“Nếu không trải qua bát khổ thì sẽ không sinh ra dục vọng. Có dục vọng mới có hành động. Hành động sẽ tạo nên nghiệp – có thiện nghiệp, ác nghiệp và nghiệp trung tính.”

“Có nghiệp thì mới có nhân quả. Có nhân quả thì quy luật luân hồi sáu cõi mới có thể tiếp diễn.”

“Vậy nên, rất tiếc, những câu hỏi ông trăn trở cả mấy thế kỷ qua – vốn dĩ không có lời giải.”

Những chân lý đến từ chiều không gian cao hơn không thể lý giải bằng tư duy con người ấy, đã làm tan vỡ đạo tâm của ông.

Ông không thể thành tiên.

Không thể phi thăng thành tiên nhân, ông chỉ có thể mãi mãi trở thành một linh hồn cô độc bị phong ấn trong lu.

Lúc ấy, con trùng đen lại lên tiếng.

“Ta có cách giải quyết.”

“Chỉ cần ông giao nguyện vọng của mình cho ta, ta có thể thay ông hoàn thành.”

“Chỉ đơn giản như vậy thôi.”

Và ông đã đồng ý.

Con trùng kỳ quái kia chui vào thân xác đã hóa thành bộ xương khô của ông, từ trong ra ngoài, dày đặc và lấp đầy hồn phách còn sót lại của ông.

Ở một ý nghĩa nào đó, ông thực sự đã vượt qua sinh tử, không còn bị tám nỗi khổ của kiếp người hành hạ nữa.

Nhưng điều theo sau đó lại là nỗi thống khổ lớn hơn rất nhiều.

Ông không thể ngờ rằng con trùng kia, vốn tưởng là đấng cứu thế, thực chất không hề có lòng thương xót cứu rỗi ai cả. Mục đích duy nhất của nó là thay thế ông, không từ thủ đoạn, kể cả những cách tà ác và vặn vẹo nhất, chỉ để cưỡng ép thực hiện “nguyện vọng” của ông.

Bởi vì, một khi nguyện vọng của ông được thực hiện, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Đại đạo hoàn thành. Và con trùng kia, nhờ vậy, cũng có thể thành tiên đắc đạo, từ đó mặc sức hoành hành gây họa cho thế gian.

Khi ông nhận ra sự thật này, thì đã quá muộn để hối hận.

Ông thấy bản thân mình lập nên Thiên Thọ Đường, được mọi người tôn sùng là vị tiên nhân cứu khổ cứu nạn. Nhưng những thứ ông truyền cho họ, đều là những công pháp tà ác, đầy rẫy oán khí.

Ông thấy những con người khổ đau, bệnh tật đến cầu xin Vô Lượng Thánh Thủy, ông muốn ngăn cản họ đừng uống, nhưng ông bất lực, chỉ có thể đứng nhìn, lạnh lùng thờ ơ.

Ông thấy con trùng kia mọc rễ, nảy mầm trong cơ thể của những người đó, ngấm ngầm chiếm lấy ý thức và làm ô uế linh hồn họ.

Họ không còn già đi, không còn cô đơn, không còn bệnh tật… nhưng cũng không còn mong muốn gì, không còn khát vọng, không còn là con người thực sự nữa.

Niềm vui vĩnh hằng đó chỉ là giả dối, và cũng là một loại tội ác.

Tất cả linh hồn của họ đều bị “vị tiên nhân” giả dối kia nuốt trọn, ông ở trong họ, họ ở trong ông, không còn ranh giới, hòa làm một thể.

Trong bụng ông, cất giấu một tòa cung điện vàng ngọc lộng lẫy, bề ngoài tưởng như huy hoàng, thực chất lại là vũng lầy đen ngòm nhúc nhích. Nhưng mọi người vẫn mù quáng chấp nhận, cam lòng sống mãi ở nơi “động thiên phúc địa” ấy, ca hát, nhảy múa điên cuồng.

Tất cả là lỗi của ông.

Lỗi hoàn toàn, không thể cứu vãn.

Là vì ông không đủ kiên định, vì ông ngu muội và kiêu ngạo, vì ông quá mềm yếu, đã trao đi điều quý giá nhất – nguyện vọng của mình.

Nỗi hối hận thấm vào tận xương, cũng đồng thời truyền lại cho Ôn Diễn.

Ôn Diễn hiểu rõ nguyện vọng quý giá đến mức nào.

Nguyện vọng là thứ không thể từ bỏ.

Nguyện vọng là thứ không thể bị làm bẩn.

Nguyện vọng sinh ra từ sâu thẳm linh hồn. Một khi nó bị vặn vẹo bởi ác ý, thì bản thân người đó cũng không còn tồn tại nữa.

Vậy mà con trùng kia lại dám biến nguyện vọng cao quý và thuần khiết của Ông Tử Huyền thành thứ ghê tởm và đáng sợ đến như vậy!

Ôn Diễn tức giận vô cùng.

Cậu muốn giành lại nguyện vọng thật sự của Ông Tử Huyền, giải phóng linh hồn ông.

Linh hồn cao khiết ấy đã bị dằn vặt suốt nhiều thế kỷ, tha thiết muốn cứu thế nhân, trong khi chính bản thân lại không thể được giải thoát.

Đáng thương, quá đáng thương. Ông ấy đáng lẽ phải được cứu rỗi, được an nghỉ vĩnh viễn trong thanh bình.

Nhưng Ôn Diễn không biết mình có thể làm gì bây giờ. Con người quá yếu đuối, lực bất tòng tâm. Trong lúc tuyệt vọng, người duy nhất cậu nghĩ đến lại là “người chồng” của mình – một quái vật vừa si tình vừa điên rồ.

Con trùng cười nhạo rằng cái kẻ gọi là “thần thổ địa” kia ở những chiều không gian cao hơn cũng chẳng là gì, yếu ớt, nhỏ bé, tầm thường, hắn không thể chống lại bất cứ vị thần nào cả.

Nhưng Ôn Diễn không còn lựa chọn.

Ngoài thần ra, cậu thật sự không còn biết dựa vào ai.

Ôn Diễn bắt đầu cầu nguyện tha thiết.

So với Aladin chà đèn thần, cầu gì được nấy, lần này còn hiệu quả hơn.

Trong cơn hoảng loạn, Ôn Diễn thấy thần vỗ cánh bay đến, nhẹ nhàng lượn quanh, tìm đến chỗ cậu.

Trên đầu thần có xúc tu, như thể đã được thiết kế tỉ mỉ, uốn cong thành hình cung rất đẹp.

Ôn Diễn trong tâm thế bất chấp tất cả, hỏi thần: “Lần này phải trả cái giá gì?”

Thần rung cánh, lại lắc xúc tu giống như một chú cún con vẫy đuôi rồi đáp: “Chỉ cần Diễn Diễn hôn ta một cái là đủ rồi.”

*Tác giả có lời muốn nói:

Đoán chừng lúc này Diễn Diễn đang có biểu cảm kiểu “ông chú tàu điện ngầm nhìn điện thoại”…

Tự dưng cảm thấy “người yêu lớn tuổi” kiểu này có vẻ thuộc dạng “rải mìn”…

Một người đẹp trai (không thể phủ nhận), mặt trắng bệch (vì đã chết), tinh thần trầm cảm (dù hắn thấy mình rất bình thường), chán đời (đã không còn đơn thuần là ghét nữa), cực kỳ khao khát được yêu (rất rõ), ghen tuông cực mạnh đối với bạn đời (@Diễn Diễn).

———

Nhân vật Ông Tử Huyền được lấy cảm hứng từ Tự Hoàng Thường. Những bài thơ, văn trong truyện được biến tấu từ tác phẩm của ông. Câu “Bi thay sáu thức…” lúc ngộ đạo trong lu cũng dựa theo bài “Tụng cây Bồ Đề” của Tự Hoàng Thường.

Để lại một bình luận

* Chú ý: Những bình luận vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng sẽ bị xóa kèm quà tặng.