Ngoài cửa thư phòng, tấm rèm màu xanh đậm buông thõng, đám người hầu đều đã bị đuổi đi, cả sân viện yên tĩnh lạ thường, âm thanh từ trong thư phòng bởi vậy truyền ra càng thêm rõ ràng.
Chỉ nghe một giọng nam trầm hùng hậu vang lên: “Kinh Hoa, đệ 12 tuổi đã đậu cử nhân, hồi đệ còn nhỏ, ông nội cũng vô cùng kỳ vọng đệ thành tài, chẳng lẽ đệ đã quên hết rồi sao? Hai huynh đệ chúng ta trời chưa sáng đã phải dậy đọc sách. Đệ 3 tuổi đã học chữ, một đứa bé nhỏ xíu như vậy, giữa mùa đông lạnh giá, đôi tay bị cóng đến đỏ bừng. Hai chúng ta đứng trong thư phòng không có lò sưởi, đệ sợ ta đói bụng, còn đặc biệt chạy ra bếp lấy khoai lang nướng chia cho ta ăn— những chuyện này đệ đều quên rồi à?”
Triệu Bảo Châu đứng ngoài nghe chuyện Diệp Kinh Hoa đọc sách lúc nhỏ, đang cảm thấy có chút xúc động thì nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng của hắn vang lên:
“Là đại ca nhớ nhầm rồi. Khoai lang đó là huynh sợ ông nội phát hiện nên nhét vào tay đệ mà.”
Trong thư phòng, Diệp đại ca rõ ràng bị nghẹn lời một phen.
Sau đó, hắn lại nói: “Không cần bới móc mấy chuyện này, ta chỉ hỏi đệ, nếu đệ không thi lấy một cái công danh về, chẳng lẽ không sợ ông nội từ Dĩnh Dương xa xôi chạy đến đánh đệ bằng gậy trúc sao?”
Trong phòng, Diệp Kinh Hoa im lặng một lúc rồi đáp: “Trước khi rời kinh, người đã nói chuyện quan trường cứ tùy ý đệ.”
Diệp đại ca lại nghẹn họng, hồi lâu sau mới ngập ngừng nói: “… Ông nội luôn thiên vị đệ kể từ khi chúng ta còn nhỏ. Đệ cũng nên biết báo đáp mới phải.”
Mùi giấm chua trong lời nói ấy gần như bay ra tận ngoài cửa.
Triệu Bảo Châu đứng ngoài nín thở lắng nghe, không nhịn được cong khóe miệng. Tuy nghe lén không phải việc quân tử sẽ làm, nhưng cuộc nói chuyện của hai huynh đệ này thực sự rất thú vị. Triệu Bảo Châu lén lút đi qua đi lại ngoài thư phòng một lúc, cuối cùng bước đến dưới một tán cây nhỏ gần đó, không định quấy rầy hai người nói chuyện, dự tính đợi họ nói xong rồi mới vào.
Bên trong phòng, Diệp Kinh Hoa cụp mắt, bưng chén trà trước mặt lên nhấp một ngụm.
Trong thư phòng thoảng hương trà Thanh Lộ Mi Sơn, Diệp Yến Chân nhìn dáng vẻ như sắp xuất gia đến nơi của nhị đệ mà tức đến nghiến răng, hắn đặt mạnh chén trà xuống bàn:
“Từ lúc mẹ về phủ tới giờ đã khóc mất mấy ngày vì chuyện đệ không chịu đi thi. Từ nhỏ mẹ thương đệ nhất, từ khi đệ tách phủ ra riêng, mẹ ngày đêm lo lắng, hễ có gì tốt đều sai người mang đến cho đệ một phần.”
Diệp Yến Chân cau mày nhìn Diệp Kinh Hoa, nói:
“Kinh Hoa, từ nhỏ đệ đã là người thông minh nhất trong số các huynh đệ tỷ muội nhà chúng ta, lòng dạ đệ thế nào thì ta không đoán được, nhưng chỉ có một câu muốn khuyên đệ.” Hắn hơi nhíu đôi mày kiếm, hai tay đan vào nhau đặt trên đầu gối: “Từ sau năm mới, Hoàng thượng đã 3 lần triệu đệ vào cung, vài lần phái người đến hỏi danh thiếp của đệ đã nộp lên Học Chính Ty chưa, ý tứ thế nào thì hẳn đệ cũng hiểu.”
Ánh mắt Diệp Yến Chân tối lại, hắn nhìn Diệp Kinh Hoa vẫn cúi đầu ngồi trước bàn, trầm giọng nói:
“Hoàng thượng sẽ không tiếp tục dung túng cho đệ ẩn cư nữa đâu.”
Giọng hắn để lộ vẻ căng thẳng.
Diệp Kinh Hoa nghe xong, thần sắc không biến đổi nhiều, hắn chỉ ngước mắt lên rồi đặt chén trà lại xuống bàn.
Diệp Yến Chân nhìn chằm chằm hắn, nói: “Những năm qua Hoàng thượng rất trọng dụng cha, cuối năm trước đại tỷ được phong Thần phi, Ngũ hoàng tử cũng dần lớn lên— giờ trên triều đình có tin đồn rằng sau lễ tế tổ, Hoàng thượng đã quyết định phong vương cho Ngũ hoàng tử.”
Ngũ hoàng tử chính là con ruột của Diệp đại tiểu thư, hiện là Thần phi được sủng ái nhất hậu cung, nay vừa tròn 13 tuổi. Phải biết rằng theo lệ đương triều, hoàng tử phải đến khi làm lễ đội mũ mới được phong vương. Ngay cả Thái tử ngày trước cũng phải đến lúc ấy mới chính thức được phong làm trữ quân, dời vào Đông cung. Vậy mà Ngũ hoàng tử mới 13 đã có tin phong vương, ý nghĩa trong đó không cần nói cũng hiểu.
“Giờ đây vinh nhục của nhà họ Diệp đều đặt trên người đệ. Kinh Hoa, đệ có từng nghĩ, nếu đệ cứ cố chấp chống lại ý Hoàng thượng, cha trên triều đình làm sao ăn nói với Hoàng thượng? Đại tỷ ở hậu cung phải làm sao đây?”
Lời này của hắn xem như dốc hết tâm can, từng chữ đâm vào lòng. Nếu là người thường nghe xong, chắc hẳn đã quỳ xuống dập đầu tự nhận mình bất hiếu rồi.
Nhưng Diệp Kinh Hoa vẫn điềm nhiên, chỉ khẽ ngước mắt, đứng dậy chậm rãi bước đến trước mặt Diệp Yến Chân, đưa cho hắn một tờ giấy gấp gọn.
“Đây là thư ông nội gửi đến hôm qua.”
Diệp Yến Chân nghe vậy bèn ngẩn ra. Ông cụ nhà họ Diệp đã cáo lão về quê nhà Dĩnh Dương từ lâu, hiếm khi hỏi đến chuyện trong kinh. Trong nhà chỉ có Diệp Kinh Hoa là còn qua lại thư từ với ông cụ.
Diệp Yến Chân nghi hoặc nhìn Diệp Kinh Hoa một cái, cúi đầu mở tờ giấy ra, thấy trên giấy tuyên viết hai dòng chữ lớn khí thế ngút trời:
“Trèo cao ngã đau”
“Công cao cái chủ”
Trên giấy không có thêm nửa chữ, nhưng tám chữ này lại sắc bén ngút ngàn, lực xuyên qua giấy khiến người nhìn một cái đã thấy lòng rung động, vừa như uy hiếp, vừa như cảnh cáo.
Nhìn hai dòng chữ, Diệp Yến Chân nhướng mày, lòng đột nhiên thót lại. Rồi nghe Diệp Kinh Hoa khẽ nói:
“Chính vì cha đã ở ngôi cao tột đỉnh, Thần phi nương nương được sủng ái nhất lục cung, đệ càng không thể ra làm quan.”
Diệp Yến Chân nghẹt thở, đương nhiên hắn hiểu ý Diệp Kinh Hoa. Chỉ là hiện giờ nhà họ Diệp đang ở đỉnh cao trong kinh thành, nhất là từ sau chuyện của Thái tử 3 năm trước— trước thời cơ tốt đẹp này, ai mà chẳng bị phú quý làm mờ mắt. Hắn im lặng một lúc, ngẩng đầu nói: “… Hoàng thượng là minh quân, đối xử rất rộng lượng với nhà họ Diệp, chưa chắc đã——”
Diệp Kinh Hoa cắt lời hắn, đôi mắt trong veo như lưu ly dưới ánh nắng xuân lộ ra chút lạnh lẽo: “Huynh muốn đặt sinh tử của nhà họ Diệp vào một ý niệm của Hoàng thượng sao?”
Diệp Yến Chân lập tức ngẩn người, im lặng hồi lâu mới thở dài một tiếng, cúi đầu dùng tay phải đỡ trán.
Diệp Kinh Hoa dời mắt, gấp thư của Diệp lão gia lại, đặt trước ngọn nến đốt cháy. Quay lại thấy Diệp Yến Chân dáng vẻ sa sút, Diệp Kinh Hoa bèn tự tay rót một chén trà đặt trước mặt hắn, thản nhiên nói:
“Trên triều có cha và đại ca là đủ rồi.” Hắn ngồi xuống ghế bên cạnh, nói: “Đệ từ nhỏ đã không ôm chí lớn, đại ca biết mà.”
Diệp Yến Chân nghe vậy đột nhiên ngẩng đầu, nhìn Diệp Kinh Hoa: “… Lời này của đệ là thật lòng sao?”
Diệp Kinh Hoa đối diện hắn một lúc, nghiêng đầu cụp mắt: “Tất nhiên.”
Diệp Yến Chân chăm chú nhìn nhị đệ có khí chất như thần tiên này, ánh mắt phức tạp, cuối cùng hắn thở dài một tiếng, cúi đầu chán nản, đưa tay vò loạn tóc trước trán:
“… Là đại ca làm lỡ đệ.”
Hắn ảm đạm nói.
Diệp Yến Chân từ nhỏ đã biết đứa em này thông tuệ hơn người. Diệp Kinh Hoa 12 tuổi đậu Giải nguyên, 13 tuổi vào cung làm thư đồng, cùng ra cùng vào với Thái tử, ai chẳng khen đây là một đôi vua giỏi tôi hiền tương xứng. Về thiên phú, tâm tính, đạo làm quan, Diệp Yến Chân tự thấy ba thứ này hắn đều không bằng Diệp Kinh Hoa, nên càng thêm chăm chỉ, nghĩ rằng làm anh thì không thể để em trai mất mặt. Trời không phụ lòng người, hắn cũng như nguyện đậu Thám hoa trong kỳ thi xuân, bước vào quan trường. Diệp Yến Chân đầy chí khí, chỉ chờ ngày Diệp Kinh Hoa ra làm quan, hắn cũng có thể giúp đỡ nhị đệ đôi phần.
Ai ngờ người tính không bằng trời tính, chẳng ai ngờ vị Thái tử gần như chắc chắn sẽ kế vị lại xảy ra biến cố, khiến tình thế triều đình đảo lộn trong một đêm.
“Nếu ta sớm biết trong hai ta chỉ một người được vào quan trường, đại ca tuyệt đối không chắn đường đệ.”
Diệp Yến Chân một tay đỡ trán, đau lòng nói. Hắn biết nhị đệ là người thích hợp làm quan nhất trong đám con cháu nhà họ Diệp, nay Diệp Kinh Hoa vì tránh hiềm nghi mà tách phủ ẩn cư, ngoài Diệp phu nhân, hắn là người thấy xót xa nhất.
Diệp Kinh Hoa ngồi bên bàn, trên mặt không chút buồn bã, chỉ nhìn ra ngoài trời: “Thời gian không còn sớm, đại ca mau về phủ đi, đệ không giữ đại ca ăn cơm đâu.”
Diệp Yến Chân đang chìm trong cảm xúc đau buồn thì khựng lại, ngẩng đầu, thấy Diệp Kinh Hoa nửa tựa bên bàn, tay cầm một khối ngọc nghịch nghịch, dáng vẻ trông như chẳng hề để tâm lời hắn vừa nói.
Diệp Yến Chân tức nghẹn: “Đệ, đệ——!” Hắn chỉ tay vào Diệp Kinh Hoa mấy lần, thấy nhị đệ chẳng biết từ đâu lấy ra cái đục bắt đầu khắc hoa văn lên ngọc, tức giận hét: “Mải chơi mất trí! Ta thấy đệ chẳng phải vì gia đình mà suy nghĩ, rõ ràng là lười biếng nên muốn trốn thôi!”
Diệp Kinh Hoa ngay cả mí mắt cũng không nhấc: “Nguyệt Cầm.”
Lời vừa dứt, một nha hoàn mặc váy màu đỏ nhạt nhẹ nhàng bước ra cúi chào Diệp Yến Chân: “Nô tỳ tiễn đại thiếu gia ra phủ.”
Diệp Yến Chân nhìn nha hoàn trước mặt, gương mặt tuấn tú tức đến xanh lại trắng, trắng lại tím, hóa ra lời hắn vừa nói đều bị xem như gió thoảng! Hắn trừng Diệp Kinh Hoa, giận dữ nói:
“Tốt lắm, tốt lắm, để xem sau này ta còn ăn một hạt gạo nào của cái phủ nhỏ nhà đệ không!”
Nói xong bèn vung tay áo bỏ đi, Nguyệt Cầm vội theo sau, vén rèm cho Diệp Yến Chân.
Diệp Yến Chân mặt đen sì, vì tức quá mà khi ra cửa gặp ánh nắng chói chang còn hoa mắt một trận, hắn nhắm mắt hai lần, mở ra thì thấy một bóng người mờ mờ mặc áo ngắn đứng dưới cây quế không xa, trông như nhóc sai vặt.
Đám người hầu trước đó đã bị đuổi đi hết khi họ nói chuyện.
Diệp Yến Chân mắt sắc quát: “Ai ở đó?”
Người đứng dưới cây chính là Triệu Bảo Châu. Cậu vốn định đợi Diệp Yến Chân ra rồi vào khuyên Diệp Kinh Hoa tham gia kỳ thi mùa xuân, ai dè lại nghe được một đoạn hội thoại kín như vậy, nhất thời hoang mang vô cùng.
Triệu Bảo Châu ngẩn ngơ, trước hoàng thất quyền quý, chút nhút nhát của dân quê lại lộ ra. Bị đôi mắt đen sắc bén của Diệp Yến Chân nhìn, cậu sợ đến run lên, một lúc sau mới phản ứng lại, vội chạy đến trước mặt Diệp Yến Chân chắp tay:
“Bái kiến đại gia.”
Diệp Yến Chân đang đầy bụng tức, thấy Triệu Bảo Châu dám đứng đây nghe lén, vừa định mở miệng mắng tên nhóc lén lút này một trận thì thoáng thấy nửa bên mặt của cậu.
“Ngươi——”
Diệp Yến Chân nhướng mày, hắn khựng lại, mắt hơi nheo, hồi lâu sau mới khẽ nói:
“Ngươi ngẩng đầu lên.”
Triệu Bảo Châu nghe lời ngẩng đầu, cẩn thận nhìn Diệp Yến Chân. Diệp Yến Chân thấy mặt cậu, nét giận dữ giữa lông mày giảm đi ba phần, ánh mắt lướt qua đôi mắt mèo của thiếu niên trước mặt, hắn bỗng gật đầu, chắc chắn nói:
“Chính là ngươi.”
Câu nói không đầu không đuôi khiến Triệu Bảo Châu ngơ ngác: “Dạ?”
Diệp Yến Chân lại hỏi: “Ngươi tên là Bảo Châu phải không?”
Triệu Bảo Châu nghe vậy càng ngạc nhiên: “Đại thiếu gia biết Bảo Châu ạ?”
Diệp Yến Chân không đáp, mà dùng ánh mắt đánh giá nhìn Triệu Bảo Châu từ đầu đến chân một lượt, rồi thong thả thu lại, lẩm bẩm: “Cũng tạm được.”
Triệu Bảo Châu mờ mịt, nghĩ thầm chẳng lẽ vị đại thiếu gia này bị tức đến hồ đồ rồi? Ai ngờ tiếp đó, cậu thấy Diệp Yến Chân tháo một miếng ngọc bội từ thắt lưng đưa cho cậu:
“Hôm nay ta không mang theo thứ gì khác, cái này ngươi cầm trước, coi như quà gặp mặt.”
Triệu Bảo Châu ngẩn ra hồi lâu mới phản ứng lại, miếng ngọc bội trong tay mát lạnh mịn màng, khắc một chữ “Chân”, nhìn cái đã biết là vật tùy thân. Triệu Bảo Châu tròn mắt, quay đầu vội nói:
“Đại, đại gia, cái này Bảo Châu không thể nhận——”
Ai ngờ Diệp Yến Chân vừa ném ngọc bội cho cậu xong đã sải đôi chân dài bước nhanh, giờ đã gần đến cửa, nghe tiếng Triệu Bảo Châu gọi thì chỉ vẫy tay từ xa.
Triệu Bảo Châu thấy hắn khuất bóng sau cửa, cầm ngọc bội nhất thời không biết làm sao.
Đúng lúc này, giọng Diệp Kinh Hoa từ sau lưng vang lên: “Bảo Châu?”
Triệu Bảo Châu quay lại, quả nhiên thấy Diệp Kinh Hoa chắp tay đứng dưới hành lang. Thấy cậu nhìn sang, khóe mắt hắn thoáng nét cười, đoạn vẫy tay với cậu:
“Lại đây.”
Triệu Bảo Châu bước tới, Diệp Kinh Hoa thấy trán cậu lấm tấm mồ hôi bèn lấy khăn tay lau nhẹ cho cậu, hỏi: “Chạy đâu chơi mà đầy mồ hôi thế này?”
“Thiếu gia—” Triệu Bảo Châu khó xử đưa ngọc bội cho Diệp Kinh Hoa xem: “Vừa nãy đại gia cho đệ cái này, nói là quà gặp mặt.”
Diệp Kinh Hoa thấy ngọc bội trong tay cậu, lông mày khẽ nhíu, đến khi nhìn chữ “Chân” thì mặt lập tức tối sầm.
Triệu Bảo Châu thấy hắn cầm ngọc bội lật qua lật lại, vẻ mặt khó dò, cậu bèn nghi hoặc hỏi: “Thiếu gia, đây là ý gì vậy?”
Diệp Kinh Hoa hồi lâu mới ngẩng đầu, liếc cậu một cái: “Không có ý gì.”
Triệu Bảo Châu bị cái liếc ấy làm run run, thầm nghĩ thiếu gia hình như không vui.
Diệp Kinh Hoa nắm ngọc bội nhét vào ngực, bình thản nói: “Ta giữ giùm đệ trước, đợi ngày khác trả lại cho huynh ấy, thế có được không?”
Triệu Bảo Châu ngây ngô nhìn hắn, nghĩ thầm huynh đã cất đồ xong xuôi rồi mới hỏi đệ ấy hả? Diệp Kinh Hoa thấy cậu không đáp bèn quay mặt lại, hơi nheo mắt:
“Sao, không muốn à?”
“Không không—”
Triệu Bảo Châu lập tức lắc đầu như trống bỏi. Ngọc bội đó giá trị không nhỏ, lại là vật tùy thân của Diệp Yến Chân, cậu cũng không dám giữ.
Triệu Bảo Châu cũng không biết rằng sau này chuyện này truyền đến tai Diệp phu nhân, bà đã kinh hãi đến mức lập tức lôi Diệp Yến Chân từ nha môn về mắng té tát một trận.
Diệp Yến Chân quỳ trước mặt mẹ, một vị quan lớn – hơn nữa đã cưới vợ – bị mắng như trẻ con lại cúi đầu, nửa chữ cũng không dám hó hé.
Diệp phu nhân trừng mắt, dùng ngón tay sơn đỏ chỉ vào hắn, giận dữ nói: “Con nói lại lần nữa xem!”
Diệp Yến Chân mấp máy môi, khẽ nói: “Con… lúc đó trên người không mang thứ gì khác, nhưng nhị đệ và cậu bé đó đã như vậy— Con làm đại ca thì cũng không thể không cho thứ gì được.”
Diệp phu nhân tức đến bốc khói, nhặt quyển sổ tay bên cạnh ném vào Diệp Yến Chân:
“Đồ ngốc!”
“Cái gì mà Trạng nguyên Bảng nhãn, quan lớn triều đình, ta thấy sách con đọc chui vào bụng chó hết rồi! Còn không mau đi xin từ chức với cấp trên đi, đỡ gây hại cho triều đình—”
Diệp phu nhân mắng một tràng, thấy Diệp Yến Chân cúi đầu nhưng vẫn không biết mình sai ở đâu, bà lập tức lén thở dài. Trong mấy đứa con của bà, chỉ có Diệp Kinh Hoa là người tinh tế. Diệp phu nhân mắng con đến mệt, bèn đỡ trán ngồi xuống ghế, khẽ nói:
“Chính vì Khanh nhi với đứa bé đó là như vậy, con càng không nên đưa vật tùy thân cho cậu ấy, lại còn là ngọc bội—” Diệp phu nhân nghĩ đến đã thấy đau đầu: “Sao con lại bất cẩn thế?”
Diệp Yến Chân liếc bà, khẽ nói: “Cậu ấy, cậu ấy là con trai… con không nghĩ nhiều.”
“Con trai cũng không được!”
Diệp phu nhân gay gắt. Bà quay lại lườm Diệp Yến Chân, trâm vàng trên đầu va vào nhau leng keng: “Con cứ đợi đấy, lần sau đến phủ Kinh Hoa, để xem nó có lột da con không!”
Diệp Yến Chân ngẩng đầu định cãi mình là đại ca của Diệp Kinh Hoa, trăm thiện lấy chữ hiếu làm đầu, Diệp Kinh Hoa có thể làm gì hắn? Nhưng nghĩ đến đôi mắt như lưu ly của em trai, Diệp Yến Chân bỗng run lên. Hắn nhớ hồi nhỏ từng bị em trai thầm tính kế, cuối cùng cúi đầu, chắp tay với Diệp phu nhân:
“Nhờ mẹ chỉ dạy ạ.”
Diệp phu nhân thấy hắn như vậy, cuối cùng bèn phất tay cho đứng dậy, chậm rãi nói: “Cách vài ngày nữa, bảo vợ con chọn một hai món tốt mang qua đó.”
Diệp Yến Chân như được đại xá, ngẩng đầu lên: “Vâng ạ.”
Diệp phu nhân giờ nhìn hắn một cái cũng thấy ngứa mắt, bèn đuổi về nha môn làm việc, đoạn lại thở dài. Tuy sớm biết Diệp Yến Chân không khuyên nổi Diệp Kinh Hoa, nhưng thấy hắn tiu nghỉu trở về, bà vẫn có chút thất vọng. Diệp phu nhân nghiêng người tựa vào bàn, nhìn ra chồi non bên ngoài cửa sổ.
Cách kỳ thi mùa xuân còn hơn một tháng, không biết nhà họ Diệp còn cơ hội xoay chuyển không.
—
Quay lại hiện tại.
Triệu Bảo Châu nghe cuộc nói chuyện của họ ngoài cửa, dũng khí đã giảm ba phần, giờ thấy Diệp Kinh Hoa sắc mặt không tốt thì càng không dám khuyên. Anh ruột còn không khuyên nổi, cậu là người ngoài, nói vài câu thì được ích gì? Huống chi… nghe Diệp Kinh Hoa nói trước đó, cục diện triều đình dường như rất bất ổn, nếu vì ham muốn cá nhân mà đẩy Diệp Kinh Hoa vào vũng lầy thì không hay.
Hơn nữa, Triệu Bảo Châu lén liếc gò má như ngọc của người trước mặt, thầm nghĩ Diệp Kinh Hoa là người giỏi nhất cậu từng gặp, quyết định của hắn chắc chắn có lý do riêng.
Diệp Kinh Hoa không hề hay biết lòng kính ngưỡng của Triệu Bảo Châu dành cho mình đang tràn đầy, lúc này hắn nắm chặt ngọc bội, hồi lâu không nói. Mãi lâu sau sắc mặt hắn mới khá hơn chút, Diệp Kinh Hoa bèn gọi người cất ngọc bội đi rồi bước qua Triệu Bảo Châu, cúi đầu xem chữ cậu viết:
“Nếu đệ thích ngọc bội, để hôm nào ta khắc cho đệ cái khác.”
Triệu Bảo Châu đang bận viết chữ, không thèm ngẩng đầu: “Đệ lấy ngọc bội làm gì?”
Giờ cậu đã quen với việc Diệp Kinh Hoa thỉnh thoảng nói chuyện sau lưng mình nên không còn sợ nữa. Diệp Kinh Hoa nghe vậy, lông mày khẽ nhíu rồi giãn ra, hắn nhìn nửa bên mặt lộ vẻ chăm chú của Triệu Bảo Châu, khẽ nói:
“Nếu đã không thích ngọc bội, vậy đệ tuổi thỏ, hay ta khắc cho đệ một con thỏ nhỏ nhé.”
Triệu Bảo Châu khi ôn bài thì toàn tâm toàn ý vào sách, nhất thời không nghe rõ Diệp Kinh Hoa nói gì, miệng ứng đối qua loa: “Vâng, được ạ.”
Diệp Kinh Hoa tất nhiên là nhận ra cậu chỉ đang lấy lệ, hắn lập tức nheo mắt, chậm rãi đứng thẳng người.
Triệu Bảo Châu đang viết chữ bỗng cảm thấy gáy lạnh toát, tay nguệch ra một vệt mực đen đậm trên giấy Tuyên.
“Lạnh quá!”
Triệu Bảo Châu rùng mình, quay đầu thấy Diệp Kinh Hoa đang cầm một khối ngọc, khẽ nhướn mày với cậu.
Triệu Bảo Châu đã quen với Diệp Kinh Hoa nên không còn nhiều e dè, thấy vậy bèn bực mình trách: “Thiếu gia làm gì vậy? Đệ đang viết chữ mà.”
Quen lâu rồi, bản tính cũng dần lộ ra. Triệu Bảo Châu tuy nhà nghèo nhưng từ nhỏ được cha mẹ cưng chiều, lúc nói câu này còn hơi bĩu môi, như trách lại như làm nũng.
Diệp Kinh Hoa ngẩn ra rồi nở nụ cười, hắn bước tới gần, khẽ nói bên tai cậu: “Được, đệ viết đi, ta không quấy rầy nữa.”
Triệu Bảo Châu liếc hắn rồi bĩu môi, quay lại tiếp tục viết. Diệp Kinh Hoa đứng bên cạnh nhìn một lúc, bỗng từ đằng sau vươn tay ra nắm tay phải Triệu Bảo Châu.
Triệu Bảo Châu giật mình, đang định rút tay thì nghe Diệp Kinh Hoa nói bên tai: “Đừng động, ta dạy đệ viết.”
Nói rồi, những ngón tay thon dài của Diệp Kinh Hoa bao lấy tay cậu, khẽ khàng dẫn bút lông trên giấy Tuyên vẽ một nét ngang cực kỳ đẹp mắt.
Triệu Bảo Châu nhìn mà ngẩn ngơ, chẳng còn để ý mùi hương thoang thoảng từ người Diệp Kinh Hoa, nín thở cảm nhận lực từ tay hắn dẫn tay mình.
Nhưng càng cảm nhận, suy nghĩ của Triệu Bảo Châu lại dần lạc lối. Cậu nhận ra tay Diệp Kinh Hoa dài hơn tay mình nhiều, ấm hơn chút, trên người thoảng mùi hương xông từ áo, vì dáng cao mà bóng đổ vượt qua cậu hắt lên tờ giấy trước mặt. Triệu Bảo Châu ngẩn ngơ nhìn cái bóng đó, bỗng rụt vai lại.
“Nhìn nhé, chữ “dũ” (愈) phải viết thế này——”
Giọng nói nhẹ nhàng của Diệp Kinh Hoa vang bên tai. Triệu Bảo Châu như bừng tỉnh khỏi cơn mơ, cậu rùng mình, còn chưa kịp nghĩ thì miệng đã nhanh hơn não, quay đầu nói với Diệp Kinh Hoa: “Không phải thiếu gia muốn khắc thỏ nhỏ cho đệ sao?”
Diệp Kinh Hoa khựng lại, quay sang nhìn cậu.
Khóe miệng Triệu Bảo Châu khẽ run lên, cậu không biết mình đang có vẻ mặt gì, chỉ thấy Diệp Kinh Hoa cười đầy yêu chiều, buông tay đứng thẳng:
“Được, khắc thỏ nhỏ trước.”
Nói rồi, hắn quay đi lấy dao khắc, cầm khối ngọc trắng tinh đến bên cửa sổ khắc thỏ nhỏ.
Triệu Bảo Châu nhìn hắn rời đi, không hiểu sao thấy nhẹ nhõm mà chậm rãi thở ra.
Hôm đó cậu học hành lơ mơ, dù sau đó Diệp Kinh Hoa không trêu nữa, Triệu Bảo Châu vẫn hồn vía lên mây, đến lúc ăn cơm cũng đờ đẫn. Đặng Vân thấy Triệu Bảo Châu ngày thường ăn như quỷ đói mà hôm nay lại ăn không ngon, còn để lại cả thịt kho tàu bèn nhíu mày, nhìn hồi lâu rồi đưa hai ngón tay búng lên trán cậu:
“Á!” Triệu Bảo Châu đau điếng, quay lại trừng hắn ta: “Đặng Vân! Ngươi búng ta làm gì?”
Đặng Vân hừ một tiếng: “Cuối cùng cũng tỉnh hồn.” Nói đoạn bèn đảo mắt, ghé sát thì thầm với Triệu Bảo Châu: “Mai là ngày nghỉ của ngươi, lúc ra khỏi phủ có muốn mua gì không? Ca ca chỉ ngươi chỗ mua.”
Triệu Bảo Châu nghe vậy bèn ngẩn ra: “Nghỉ?”
Đặng Vân nói: “Đúng vậy, ngày nghỉ phép tháng của ngươi, mai có thể ra khỏi phủ, ngươi quên rồi à?”
Triệu Bảo Châu ngẩn ngơ một lúc rồi giơ tay vỗ mạnh lên trán: “Đúng rồi! Ta quên mất—” Danh thiếp của cậu!
Triệu Bảo Châu lúc này mới nhớ ra danh thiếp của mình vẫn chưa rõ tung tích, sáng hôm sau bèn dậy thật sớm, thu dọn bọc đồ nhỏ, chưa kịp ăn sáng đã định chạy ra ngoài. Diệp Kinh Hoa ở nhà chính nhìn thấy bèn gọi cậu lại ăn sáng, còn bắt mặc thêm áo rồi mới thả Triệu Bảo Châu ra cửa.
“Về trước giờ Dậu nhé.”
Diệp Kinh Hoa vừa cúi đầu chỉnh vạt áo trước ngực Triệu Bảo Châu vừa dặn.
Triệu Bảo Châu ngạc nhiên nhìn hắn, không ngờ ngay cả giờ về cũng bị quản.
Diệp Kinh Hoa không nghe cậu đáp bèn ngước lên: “Biết chưa?”
Triệu Bảo Châu vội gật đầu đồng ý. Diệp Kinh Hoa lúc này mới hài lòng, cúi đầu mở túi tiền, lấy ra một nắm bạc vụn nhét cho cậu: “Ra ngoài đừng mang bạc thỏi, mang cái này tiện mua đồ.”
Triệu Bảo Châu tròn mắt, vội từ chối: “Thiếu gia cho đệ cái này làm gì? Đệ mang tiền rồi mà.”
Diệp Kinh Hoa bị từ chối bèn nhìn cậu một lúc, nhíu mày: “Đệ mua gì mà phải dùng bạc thỏi?”
Triệu Bảo Châu càng tròn mắt hơn, bạc Diệp Kinh Hoa cho đủ để một nhà ba người ăn uống thoải mái mấy năm đấy! Cậu chẳng dám động tới, nghe vậy liền mở bọc của mình cho Diệp Kinh Hoa xem:
“Thiếu gia, đệ thật sự mang tiền mà!”
Diệp Kinh Hoa cúi nhìn, thấy trong bọc vải rách của cậu rõ ràng gói một xâu tiền đồng, hắn lập tức cau mày:
“Chừng này tiền sao đủ.”
Triệu Bảo Châu vội nói: “Thiếu gia, thật sự đủ rồi.”
Diệp Kinh Hoa liếc cậu, lười tranh cãi với con lừa cứng đầu này, không nói không rằng mà nhét bạc vụn vào túi tiền của Triệu Bảo Châu, đuổi cậu đi:
“Đi đi, về sớm chút.”
Triệu Bảo Châu bất đắc dĩ, đành ôm túi tiền nặng trịch ra ngoài, nhưng trong lòng đã quyết không dùng tiền của Diệp Kinh Hoa.
Để tránh cậu lạc đường, Đặng Vân đặc biệt đưa cho cậu một tấm bản đồ mới nhất của kinh thành, nghe nói do Phương Cần tự vẽ, trên đó dùng hai khung vuông lớn vẽ phố Đông và phố Tây, trong mỗi khung lại dùng các ô vuông nhỏ tinh tế vẽ từng cửa hiệu. Hôm Triệu Bảo Châu vào kinh, một là mới đến nên đầu óc quay cuồng, hai là bị sự phồn hoa của kinh thành làm cho choáng ngợp nên mới lạc lối. Giờ mọi nơi đều rõ ràng trên một tờ giấy, Triệu Bảo Châu nhìn lại thấy đâu vào đấy ngay.
Cậu từ cửa Hoài Hóa phía tây nam kinh thành đi vào, nếu đi theo hướng ngày đó Lam thị vệ chỉ thì vốn nên men theo tường cung đến chợ Thông Thanh ở cửa Đông, nơi đó ghi chú là có nhiều quán trọ. Nhưng giữa đường cậu gặp tiểu thương kia nên rẽ hướng, đi thẳng vào trung tâm kinh thành!
Triệu Bảo Châu nhìn là hiểu ngay. Hôm đó cậu rõ ràng bị tiểu thương kia lừa!
“Lại còn có chuyện như vậy sao!”
Triệu Bảo Châu siết tấm bản đồ mà tức đến bốc khói, không ngờ tiểu thương kia lại xấu xa thế. Nếu có ngày bị cậu tóm được, nhất định phải đánh cho một trận!
Tức thì tức, nhưng giờ Triệu Bảo Châu còn việc quan trọng hơn phải làm, cậu bình tĩnh lại, theo hướng ghi trên bản đồ tìm đến Học Chính Ty. Ai ngờ hỏi viên sai dịch trực ban, gần đây không ai nhặt được danh thiếp mà tới gửi cả.
Mỗi kỳ thi mùa xuân, cử nhân từ các nơi xa xôi lên kinh ứng thí, trên đường danh thiếp bị mất hay bị cướp là chuyện bình thường, năm nào cũng có, sai dịch ở Học Chính Ty cũng quen rồi. Thấy Triệu Bảo Châu mặt đầy lo âu, hắn tốt bụng nói: “Giờ dù có gửi thư về Học Chính Ty ở Ích Châu lấy bản sao danh thiếp của cậu thì cả đi cả về cũng mất ít nhất nửa tháng, chưa chắc đã kịp kỳ thi mùa xuân. Hôm nay ta giúp cậu gửi thư đi trước, nhưng để chắc chắn, cậu vẫn nên tìm kỹ lại đi.”
Triệu Bảo Châu nghe vậy vội cúi người cảm tạ: “Đa tạ đại nhân rộng lượng giúp đỡ, ân tình này Bảo Châu nhất định ghi lòng tạc dạ.”
Sai dịch bị cậu khen đến đỏ mặt, thực ra hắn thấy Triệu Bảo Châu tuổi trẻ đã đậu cử nhân, ăn mặc không tầm thường, mặt mày tuấn tú, tuy quê quán xa xôi hẻo lánh nhưng chắc trong kinh có họ hàng giàu sang nên mới muốn kết mối duyên lành.
Triệu Bảo Châu cảm tạ rồi rời khỏi Học Chính Ty. Các nha môn đều xây ở chỗ cao, từ cửa nhìn xuống sẽ thấy phố Đông phố Tây nhộn nhịp, sáng sớm đã đông nghịt người. Triệu Bảo Châu thở dài, cảm thấy hy vọng tìm lại danh thiếp của mình thật mong manh.
Quả nhiên, Triệu Bảo Châu đi theo con đường lớn lúc mới đến kinh thành, hỏi hết các quán trọ và tửu lâu từng ghé qua nhưng không có ai nhặt được danh thiếp của cậu. Có tiểu nhị nhận ra Triệu Bảo Châu, không ngờ tên ăn mày ngày đó lại lột xác thành dáng vẻ đàng hoàng thế này, lại còn tìm danh thiếp cử nhân. Một số người ngạc nhiên nghi ngờ cậu nói dối để lừa họ, số khác nhớ lại cảnh ngày đó đánh đuổi Triệu Bảo Châu, sợ hãi tới độ mặt trắng bệch, quỳ xuống dập đầu xin lỗi cậu.
Triệu Bảo Châu thấy vậy bèn nhíu mày đỡ người dậy: “Không cần làm thế. Chuyện ngày đó ta đã sớm không để tâm rồi.”
Tiểu nhị vẫn dập đầu, miệng nói: “Tiểu nhân có mắt không tròng, vô lễ xúc phạm quý nhân, mong quý nhân tha cho tiểu nhân lần này!”
Nói rồi gã tự tát vào mặt mình. Triệu Bảo Châu vội khuyên can, cam đoan không truy cứu thì tiểu nhị mới ngừng lại, hai má sưng đỏ mà vẫn cười tiễn cậu ra cửa.
Triệu Bảo Châu rời tửu lâu, đi đến chỗ tiểu nhị không nhìn thấy nữa mới thở dài, ngước lên nhìn trời:
“Thói đời ngày nay!”
Cậu đương nhiên biết tiểu nhị sợ hãi là vì lý do gì, còn chẳng phải vì cậu mặc áo đẹp, thắt lưng đeo ngọc bội thượng hạng hay sao. Chỉ riêng thay đổi cách ăn mặc đã khiến thái độ của tiểu nhị chuyển biến nghiêng trời lệch đất.
Trong kinh thành, quan lại quý nhân quyền thế ngút trời rất nhiều, người hầu trong chốn nhà cao cửa rộng cũng hơn người thường vài phần. Đám tiểu nhị biết cách vuốt mặt nể mũi, cũng sợ đắc tội quý nhân mà rơi vào cảnh không ngóc đầu lên được.
Nhưng cảnh này vào mắt Triệu Bảo Châu lại khiến cậu sinh ra chút cảm khái. Cậu cúi đầu ngẩn ngơ đi trên đường, miệng lẩm bẩm:
“Mình mặc một bộ đồ tốt chút thôi mà đã dọa tiểu nhị thành như vậy, đủ thấy đám quyền quý trong kinh ngày thường ỷ thế hiếp người thế nào, mới khiến họ sợ đắc tội đến vậy.”
Triệu Bảo Châu nghĩ rõ ràng, tiểu nhị hay tiểu thương lừa cậu cũng không phải sinh ra đã biết nịnh trên nạt dưới, quen nhìn mặt người. Tục ngữ nói “trên không ngay, dưới tất lệch”, chắc chắn là đám quan lớn, hoàng thân quốc thích ngày ngày kiêu ngạo ngang ngược, mới khiến cả kinh thành thành ra thế này.
Nghĩ vậy, trong đầu cậu hiện lên gương mặt Diệp Kinh Hoa. Thiếu gia nhà mình chắc chắn không làm ra chuyện như ỷ thế hiếp người đâu.
Triệu Bảo Châu không để ý suy nghĩ của mình lại dần trôi về Diệp Kinh Hoa, đang nghĩ ngợi thì nghe một giọng nói:
“Nói đến giả vờ giả vịt, ai qua được vị nhà họ Diệp kia chứ?”
Triệu Bảo Châu đang nghĩ đến Diệp Kinh Hoa, đột nhiên nghe thấy “nhà họ Diệp” bèn ngẩng đầu nhìn, thấy hai thanh niên mặc đồ thư sinh ngồi ở tầng hai tửu lâu ngay trên đầu cậu.
Người bên phải cầm quạt xếp, đang hứng thú nói với người còn lại:
“Lần thi mùa xuân trước đã làm loạn một trận, hắn bày ra trò tách phủ, lần này lại giở trò. Ta nghe nói Hoàng thượng ngày nào cũng sai người đến Diệp phủ mời ba lần bốn lượt, vậy mà hắn cứ không chịu nộp danh thiếp. Hôm nay nói bệnh, mai không ở trong phủ, mốt lại nói chưa cưới vợ nên không tiện ra làm quan, ta thấy chỉ riêng mấy cái cớ của hắn đã đủ viết thành một cuốn sách!”
Tuy không chỉ đích danh, nhưng Triệu Bảo Châu vừa nghe đã biết người kia đang nói về Diệp Kinh Hoa, từng chữ từng câu rõ ràng không có ý tốt. Cậu lập tức dừng chân, nheo mắt nhìn lên.
Chỉ thấy người áo xanh đối diện với thư sinh cầm quạt kia mỉm cười: “Hắn cứ thoái thác như vậy, chẳng phải đang làm mất mặt Hoàng thượng hay sao?”
“Chứ còn gì nữa.” Thư sinh cầm quạt hớn hở: “Nghĩ mà xem, 3 năm trước hắn không đi thi thì còn có thể nói là vì “chuyện đó”. Dù sao hắn là thư đồng của Thái tử điện hạ, nếu nói mình quá đau lòng thì còn tạm chấp nhận được. Nhưng 3 năm trôi qua rồi, nếu hắn còn không đi thi, để ta xem nhà họ Diệp giải thích thế nào!”
Người áo xanh đối diện cười nhạt không nói, chỉ bưng chén trà nhấp một ngụm. Thư sinh cầm quạt càng nói càng hăng, cười xấu xa: “Ta nói chứ, cái gọi là thần đồng của hắn từ lâu đã không còn rồi. Thần đồng gì mà cứ thoái thác không đi thi? Nhìn nhà họ Tào kia xem, tuy 15 mới đậu cử nhân, nhưng thi một lần là đứng đầu bảng, giờ làm quan đã 3 năm rồi! Ngày trước có Thái tử điện hạ che chở hắn, giờ thì hay rồi, xem lần này hắn lấy cớ gì thoát thân!”
Hắn ta nói say sưa, không hề để ý Triệu Bảo Châu đứng dưới hành lang đang lạnh lùng nhìn chằm chằm mình. Nghe xong một tràng, cậu đã hiểu rõ, hai thư sinh này quanh co nói Diệp Kinh Hoa danh không xứng thực, ám chỉ hắn vì học vấn kém mới không dám đi thi.
Triệu Bảo Châu nắm chặt tay, lạnh mặt bước vào tửu lâu, lập tức có tiểu nhị ra đón: “Vị khách quan này muốn ăn gì, đã đặt chỗ chưa ạ?”
“Ta lên tầng hai.” Triệu Bảo Châu mắt dán vào hai người kia, tùy tiện nói: “Cơm nước ngươi tự xem mà dọn lên.”
“Dạ!” Tiểu nhị thấy cậu hào phóng như thế bèn cười tươi dẫn người lên tầng hai, sau đó quay đi chuẩn bị đồ ăn.
Triệu Bảo Châu ngồi ở góc tầng hai, mắt nhìn hai người ngồi cạnh lan can, thấy người áo xanh cười:
“Ngươi cần gì phải quan tâm hắn lấy cớ gì. Tỷ tỷ hắn là nương nương trong hậu cung, cha là quan chấp chính, đâu thiếu cớ được? Tùy tiện tìm một cái là đuổi được ngươi rồi.”
Thư sinh đối diện hừ lạnh, “phạch” một tiếng mở quạt, lắc đầu ngạo nghễ: “Đám người xuất thân hàn môn như chúng ta đương nhiên dễ đuổi. Nhà họ Diệp quyền quý giàu sang như thế, chỉ riêng vàng bạc Hoàng thượng ban trong một năm đã đủ để nhà dân thường dùng cả đời. Nghe nói phủ riêng của hắn cố ý chọn chỗ khuất người mà xây, cột cửa đều bằng ngọc, mặt ngoài khảm vàng, lại nuôi một đám nha hoàn xinh đẹp, xa hoa dâm dật cực kỳ. Ai biết hắn không cưới vợ không làm quan, ngày ngày trốn trong cái ổ vàng ổ bạc đó làm gì?”
Triệu Bảo Châu ngồi bên kia nghe mà tức anh ách. Ngọc gì, vàng gì? Chỉ có đám miệng lưỡi độc địa này mới nghĩ ra được!
Cùng lúc, người áo xanh cười một tiếng, lắc đầu: “Vàng bạc tuy tốt, nhưng thánh nhân có nói, tiết kiệm thì thịnh, dâm dật thì vong. Vị Diệp công tử này tầm nhìn nông cạn, dựa vào việc Tể tướng và nương nương được Hoàng thượng sủng ái mà kiêu ngạo như vậy, chẳng phải là kế lâu dài.”
Thư sinh cầm quạt cười nói: “Ngươi bảo đó là kiêu ngạo, ta thấy hắn là quanh co nịnh Hoàng thượng đấy! Hắn bày ra dáng vẻ cao nhân ẩn sĩ, mặt cũng không lộ, còn muốn Hoàng thượng ba lần bốn lượt mời, chẳng phải là cố ý thách đố Hoàng thượng, khiến người thật sự nghĩ họ Diệp đó là danh thần xuất thế sao. Ta thấy hắn không cần gọi Tuệ Khanh gì đó, gọi Tuệ nhảm nhí thì hợp hơn!”
Hắn ta tự cho là nói một câu đùa tuyệt diệu, nhưng đợi nửa ngày mà không thấy bạn đồng hành đáp lại bèn lập tức nhìn qua, chỉ thấy thư sinh áo xanh đang đánh mắt sang bên với ánh nhìn kỳ lạ.
Hắn ta nghiêng đầu theo, thấy một thiếu niên mặt mày tuấn tú chẳng biết từ lúc nào đã đứng bên bàn, mỉm cười nhìn họ.
Thiếu niên mặc áo ngắn trắng ngà thêu hoa vàng, trông tuổi không lớn. Thư sinh thấy cậu thanh tú như vậy thì ngẩn ra, nghĩ có lẽ là người quen:
“Ngươi là ai? Sao lại đứng đây?”
“Không có gì.” Triệu Bảo Châu cười tươi: “Chỉ muốn đến xem hai con quỷ lắm mồm trông thế nào thôi.”
Giọng cậu không to không nhỏ, vừa đủ để cả tửu lâu nghe thấy. Lời vừa dứt, giữa đám khách vang lên vài tiếng cười phì.
Bị xúc phạm thẳng mặt, hai người ngẩn ra rồi xanh trắng cả mặt, giận dữ nhìn Triệu Bảo Châu.
Triệu Bảo Châu chẳng thèm để ý sắc mặt họ, cậu liếc qua từng người, chậm rãi nói: “Ta thấy hai vị ăn mặc phong lưu, cũng giống người có học. Giờ cách kỳ thi mùa xuân chưa đầy một tháng, chắc hai vị đã nắm chắc phần thắng nên mới rảnh rỗi ngồi đây đâm thọc người khác.”
Triệu Bảo Châu lời mang ý châm biếm, nhưng ngoài mặt vẫn cung kính chắp tay với họ: “Đã vậy, ta nên làm quen với hai vị trước thì hơn.” Cậu đứng thẳng, chỉ vào thư sinh áo trắng: “Vị này miệng lưỡi sắc bén, tài chọc ngoáy này chắc việc gì trên đời cũng phải xen vào một câu, có tố chất Trạng nguyên.”
Nói rồi, cậu quay sang người áo xanh cầm quạt: “Vị này khí chất phong lưu, mặt còn đánh phấn, yêu cái đẹp thế này, hẳn là Thám hoa!”
Triệu Bảo Châu đang cười nói, nhưng ai cũng nghe ra ý mỉa mai khen ngoài chê trong— nói áo trắng lắm mồm đáng ghét, việc không liên quan cũng chen miệng; nói áo xanh giả phong lưu, ra vẻ nho nhã mà học phụ nữ đánh phấn.
Hai người tức đến trắng mặt, trong đó tên áo trắng đập bàn đứng dậy, giận dữ chỉ vào Triệu Bảo Châu: “Đứa nhóc miệng còn hôi sữa từ đâu ra, dám đến đây làm càn?!”
Triệu Bảo Châu mặt không đổi sắc, cười: “Vị huynh đài này tức cái gì?” Cậu cười tươi, như chợt nhớ ra gì đó, ngạc nhiên nhìn áo trắng rồi nhìn áo xanh:
“Chẳng lẽ… hai vị đều không đi thi?” Triệu Bảo Châu chớp mắt, thấy mặt họ đột nhiên biến sắc, cậu lại nghiêng đầu: “Hay là ngay cả cử nhân cũng không đậu nổi?”
Đây mới là đâm trúng chỗ đau. Ngay cả thư sinh áo xanh luôn giả điềm tĩnh cũng đen mặt, nắm chặt lấy cây quạt. Thư sinh áo trắng mày dựng ngược, trán nổi gân xanh, trợn trừng mắt nhìn Triệu Bảo Châu:
“Thứ trẻ con vô tri, ngươi biết thi cử nhân khó thế nào không? Há để ngươi nói bừa?”
Hắn ta vừa nói đã gián tiếp thừa nhận cả hai không phải cử nhân. Thư sinh áo xanh cầm quạt bèn liếc hắn ta đầy trách móc, đúng là đồ ngu!
Triệu Bảo Châu đột nhiên lạnh mặt, âm u nói: “Ngươi đã biết thi cử nhân không dễ. Vậy Diệp công tử 12 tuổi đã đậu Giải nguyên, ngươi có biết không?”
Thư sinh áo trắng đương nhiên biết, không chỉ hắn ta mà cả kinh thành đều biết. Năm đó Diệp Kinh Hoa, con trai thứ hai nhà họ Diệp, 12 tuổi đã đậu Giải nguyên, năm sau vào cung làm thư đồng của Thái tử, được Hoàng thượng hết mực sủng ái, rõ ràng là thần đồng nổi danh kinh thành. Nhưng mặt khác, Diệp Kinh Hoa cũng là đám mây đen lơ lửng trên đầu đám sĩ tử cùng lứa.
Thư sinh áo trắng nghe vậy sao chịu nổi, còn đang tức giận mà lại bị kích thích thêm, hắn ta bèn buột miệng: “Ai biết cái Giải nguyên đó hắn lấy kiểu gì? Nhà họ Diệp bản lĩnh thông thiên—”
Còn chưa nói xong, hắn ta đã đột nhiên cảm thấy eo đau nhói, sau đó ngã vào lan can.
“Đồ chó nhà ngươi!”
Triệu Bảo Châu tức đến mất khôn, sự nho nhã của kẻ đọc sách bị ném sau đầu, bản tính ngang tàng hồi còn ở làng lại trỗi dậy. Cậu đá một cú vào bụng thư sinh áo trắng, chỉ vào kẻ đang ngã lăn lóc mà mắng:
“Ngươi còn dám ngậm máu phun người ngậm phân phun cây nữa không? Cẩn thận ta xé rách miệng ngươi!”
Thư sinh áo trắng chưa từng thấy cảnh này. Một là thấy Triệu Bảo Châu mặt mày tuấn tú, không ngờ cậu đột nhiên ra tay; hai là Triệu Bảo Châu trông gầy gò, ai ngờ sức lại lớn như vậy. Hắn ta trúng một cú mà eo lưng đau nhói, nhất thời không đứng dậy nổi.
Triệu Bảo Châu tức bốc khói, định lao lên đá tiếp, thư sinh áo xanh đã vội đứng dậy ngăn, dùng quạt chỉ Triệu Bảo Châu: “Ngươi là ai? Dám làm loạn dưới chân thiên tử! Ta nói cho ngươi biết, ngươi thế này là phạm pháp——”
Triệu Bảo Châu thấy tên giả thanh cao này thì càng thêm ghét, cậu quay lại trừng mắt đanh giọng: “Ông đây là ông nội ngươi!”
Thư sinh áo xanh trợn tròn mắt, ngay sau đó quạt trên tay đã bị giật mất.
Triệu Bảo Châu cầm quạt, thấy dưới quạt treo một viên ngọc lấp lánh, vừa nhìn đã biết giá trị không nhỏ, cậu bèn cười khẩy, ngước mắt nhìn thư sinh áo xanh:
“Ngươi vừa nói “tiết kiệm thì thịnh, dâm dật thì vong”, chắc cũng hiểu đạo lý này. Đã không thích xa xỉ, cái quạt này hẳn chẳng đáng mấy đồng.”
Lời vừa dứt, cậu đã xé tan quạt trong ba nhát, ném viên ngọc xuống đất giẫm mấy cái. Thư sinh áo xanh hít một hơi lạnh, muốn ngăn cản nhưng đã muộn.
Triệu Bảo Châu giẫm nát ngọc xong bèn ngẩng đầu lấy hai đồng tiền xu đặt lên bàn, hất cằm nói: “Đền quạt cho ngươi.”
Chừng này tiền sao đủ?
Thư sinh áo xanh trắng bệch cả mặt, viên ngọc đó là ngọc Hòa Điền! Nhưng dù trong lòng đang nhỏ máu, giờ hắn ta cũng chẳng dám nói gì—nếu đòi Triệu Bảo Châu bồi thường và nói ra giá trị thật của viên ngọc, thế chẳng phải là tự vả mặt, thừa nhận mình cũng ham hư vinh, giả thanh cao hay sao?
Thư sinh áo xanh nghẹn họng, thấy Triệu Bảo Châu mắt đầy trào phúng nhìn mình bèn quay sang thư sinh áo trắng ngã dưới đất, lại giơ chân định đá:
“Xem ta có đá chết ngươi không! Ngươi còn nói nữa? Nói nữa đi!”
“Ái ui!”
Triệu Bảo Châu từng là tay đánh lộn cừ khôi ở trong làng, biết rõ đánh người phải đánh vào mặt, bèn giơ chân đá mạnh vào mặt thư sinh áo trắng. Hắn ta bị đá đến ôm mũi chảy máu, lăn lộn dưới đất, vừa lăn vừa xin tha:
“Á! Đừng đánh nữa! Đại gia, đại gia! Tha cho ta lần này đi!”
Thấy Triệu Bảo Châu hung dữ, từ đâu đó trong tửu lâu vang lên tiếng “ồ”, ai đó khẽ dặn người bên cạnh: “Đi dẫn cậu ta qua đây.”
Thế là Triệu Bảo Châu chỉ kịp đá vào mặt thư sinh áo trắng 4-5 cái thì đã bị người từ phía sau khống chế. Hai người đàn ông một trái một phải túm tay cậu kéo lại.
Triệu Bảo Châu đang tức giận, trừng thư sinh áo trắng ngã dưới đất mà vẫn chưa hả giận, xa xa nhổ một bãi nước bọt về phía hai người: “Cái thứ gì vậy! Loại như các ngươi mà cũng dám tự xưng là kẻ đọc sách? Sách vở đọc chạy hết vào bụng chó rồi! Không sợ bị đánh thì cứ việc đến đây, để xem hôm nay ta có đánh chết hai tên khốn các ngươi không—”