Lông mày Diệp Kinh Hoa khẽ nhướng, ý cười nơi khóe miệng nhạt đi vài phần.
Triệu Bảo Châu không để ý đến sự thay đổi trên mặt hắn, tự mình lẩm bẩm: “Chắc chắn là vậy, lần trước phu nhân đến thúc giục huynh, huynh chẳng nói gì đã để phu nhân về. Phu nhân hẳn là giận lắm, nên Thần phi nương nương mới triệu huynh vào cung.”
Trong mắt Triệu Bảo Châu, dù là ở cái thôn quê hẻo lánh của mình, đàn ông đến tuổi trưởng thành mà chưa cưới vợ cũng rất hiếm. Nếu không phải gia đình thực sự khó khăn thì thường người ta vừa tới tuổi trưởng thành là sẽ cưới vợ ngay. Nhà nông còn thế, đám công tử giàu có ở kinh thành chắc chắn càng phải vậy. Như Diệp phu nhân lần trước nói, công tử nhà Thượng thư cách vách mới 17 tuổi đã cưới vợ. Diệp Kinh Hoa đến nay chưa cưới, chắc là do kén chọn quá thôi.
Nhưng Triệu Bảo Châu cũng thấy sự kén chọn của Diệp Kinh Hoa là rất đáng. Diệp Kinh Hoa là người xuất sắc nhất cậu từng gặp trong đời, nếu là mấy cô nương bình thường chắc chắn không thể xứng với hắn—
Triệu Bảo Châu tự lẩm bẩm một lúc, lúc ngẩng đầu lên lại thấy Diệp Kinh Hoa cúi nhìn cậu, sắc mặt có phần lạnh nhạt.
“?” Triệu Bảo Châu ngẩn ra, nghi hoặc hỏi: “Đệ nói sai sao? Nương nương không phải thúc giục huynh cưới vợ à?”
Mí mắt Diệp Kinh Hoa khẽ động, ánh mắt rơi trên gương mặt hơi do dự của Triệu Bảo Châu, hắn ngừng một lát rồi khẽ thở dài, nhẹ giọng nói: “Không, đệ nói đúng. Nương nương khuyên ta nên sớm cưới vợ.”
“Đấy.” Triệu Bảo Châu sáng mắt, cười rộ lên, hai lúm đồng tiền hiện ra bên má: “Đệ đã bảo mà, Thần phi nương nương chắc chắn là giận huynh rồi.”
Diệp Kinh Hoa thấy cậu cười vui vẻ, sự phiền muộn không rõ tên trong lòng bỗng tan đi, trên mặt lại thoáng hiện lên chút ý cười. Triệu Bảo Châu cười xong lại lo cho Diệp Kinh Hoa: “Giờ phu nhân và Thần phi nương nương đều đích thân đến thúc giục, thiếu gia vẫn nên để tâm mới phải, mệnh cha mẹ, lời mối mai—”
Diệp Kinh Hoa nhìn Triệu Bảo Châu nhỏ tuổi mà ra vẻ ông cụ non thì vừa bực vừa buồn cười, nhất thời không làm gì được cậu, chỉ đành bất đắc dĩ lắc đầu mặc cậu nói.
—
Cùng lúc đó, trong nội cung.
Hạ nội giám tốn bao công sức, cuối cùng phải gọi đại cung nữ bên cạnh Thần phi đến mới kìm được Ngũ hoàng tử rồi đưa cậu ta về Văn Uyên Các. Hạ nội giám đi một mạch đến ngự thư phòng, dừng lại ở cửa cung, lấy khăn lụa lau mồ hôi trên trán rồi mới bước vào điện.
Đầu xuân, thời tiết còn se lạnh, các góc ngự thư phòng vẫn đặt chậu than bạc. Trong điện rất yên tĩnh, cung nữ và tiểu thái giám đứng một chỗ, đều cúi đầu cụp mắt. Hạ nội giám lặng lẽ vòng qua sau bình phong, liền thấy một người đàn ông trung niên mặc áo bào tay chẽn thêu rồng vàng đứng sau bàn gỗ nam, đang cúi nhìn thứ gì đó.
Người đàn ông đó tuổi đã lớn, tóc mai hoa râm, nhưng dáng người thẳng tắp, tay phải đeo một chiếc nhẫn ngọc bích, lúc này đang gõ từng nhịp lên mặt bàn.
Hạ nội giám khẽ đến gần, thấp giọng hô: “Bệ hạ.”
Nghe tiếng, người kia ngẩng đầu lên, đôi mắt hổ sáng rực uy nghiêm. Ông chính là đương kim thánh thượng, Nguyên Trị đế.
“Đưa tiểu Ngũ về rồi?”
Ông hỏi.
Hạ nội giám vội đáp: “Đã đưa về Văn Uyên Các rồi ạ, điện hạ nhân lúc Thái phó không để ý mà chạy ra ngoài, Thái phó đại nhân tức giận lắm ạ.”
Nguyên Trị đế quay đầu, cầm cuộn giấy trên bàn lên vừa xem vừa nói: “Chu Tấn già rồi, bằng ông ta thì sao mà đè nổi tiểu Ngũ.”
Hạ nội giám nghe vậy cũng thở dài. Ngày trước, khi Thái tử điện hạ và Diệp nhị công tử còn ở đây, Ngũ điện hạ ngoan như mèo, nhưng giờ càng lớn lại càng ngỗ nghịch. Nhưng lời này ông ta không dám nói, chỉ uyển chuyển thưa:
“Ngũ điện hạ ở ngoài gặp Diệp nhị công tử, sợ đến mặt trắng bệch.”
Nguyên Trị đế nghe vậy khẽ cười: “Tiểu Ngũ luôn sợ Tuệ Khanh.”
“Đúng vậy ạ.” Hạ nội giám thấy tâm trạng Hoàng đế đang tốt bèn bước tới nói đùa: “Theo nô tài thấy, cả cung trên dưới cũng chỉ Diệp nhị công tử trị được Ngũ điện hạ.”
Ngày Diệp Kinh Hoa còn ở trong cung, Ngũ điện hạ mỗi ngày trời chưa sáng đã ngoan ngoãn ngồi ở Văn Uyên Các, tan học còn bị Thái tử và Diệp Kinh Hoa lôi đi kiểm tra bài vở. Hạ nội giám quan sát, cũng thấy chữ của Ngũ hoàng tử ngày trước khá hơn bây giờ nhiều.
“Theo ý nô tài, vẫn nên để Diệp nhị công tử dạy dỗ Ngũ hoàng tử thì hơn. Nô tài tuy kiến thức nông cạn, nhưng khi Diệp nhị công tử ở trong cung, nhân phẩm học vấn ai chẳng khen, ngay cả Thái phó cũng bảo Diệp nhị công tử có trí tuệ bậc nhất, người thường không mấy ai sánh bằng.”
Nghe đến đây, Nguyên Trị đế hừ lạnh: “Hồ đồ, ngươi nghĩ trẫm không biết hắn giỏi sao?”
Hạ nội giám ngậm miệng nhìn kỹ, bỗng phát hiện cuộn giấy trên tay Nguyên Trị đế chính là chữ của Diệp Kinh Hoa. Nét chữ khí thế hào hùng, đề một cặp câu đối ngũ ngôn về trung quân báo quốc.
“Nhìn xem, viết tốt chứ.” Nguyên Trị đế thấy ông ta nhìn bèn nghiêng giấy cho xem.
“Tốt ạ. Tốt lắm luôn ạ.” Hạ nội giám gật đầu lia lịa.
Nguyên Trị đế cười một tiếng: “Hôm nay trẫm triệu hắn đến, trước để hắn đứng ngoài nửa khắc, vừa cho vào liền bảo hắn viết một cặp câu đối về trung quân ái quốc.”
Hạ nội giám nghe mà giật mình, đây chẳng phải đang lập uy sao? Ông ta dẫn Diệp Kinh Hoa vào cung rồi bận đi tìm Ngũ hoàng tử, nên lỡ mất lúc hắn diện thánh. Nhưng Nguyên Trị đế luôn rất thưởng thức Diệp nhị công tử, lại cực yêu thương Thần phi nương nương, chưa từng nói nặng một câu với cậu em vợ này. Nay “khó dễ” thế này thì thật bất thường.
Chắc là giận chuyện Diệp nhị công tử cứ chần chừ mãi không chịu đi thi. Hạ nội giám thầm nghĩ, cẩn thận ngước nhìn sắc mặt Hoàng đế.
Chỉ thấy trên gương mặt Nguyên Trị đế không có bao nhiêu giận dữ, ông chỉ thở dài: “Hắn nghe xong thì vào ngồi, chưa đến nửa khắc đã viết xong câu đối này. Trẫm xem ngang xem dọc, từ trên xuống dưới, không có chỗ nào không ổn thỏa.”
Hạ nội giám cười theo: “Tài văn chương của Diệp nhị công tử luôn cao như vậy.”
Nguyên Trị đế nhìn nét chữ, lắc đầu: “Văn chương đã tốt, nhưng tâm tính càng hiếm có. Hắn viết xong bèn đặt bút xuống rồi đi luôn, trẫm lập uy thế mà không thể lay nổi hắn!”
Lời này vừa nói ra, lòng Hạ nội giám chợt thót lại. Nếu nghĩ nghiêm trọng lên thì đây chẳng phải bất kính với vua sao! Nhưng ngẩng lên nhìn, thấy Hoàng đế không có vẻ tức giận, ngược lại còn ngầm lộ ra chút tán thưởng.
Nguyên Trị đế đặt cuộn giấy xuống, lắc đầu thở dài: “Thái Sơn đổ trước mặt mà không đổi sắc, quả nhiên nhà họ Diệp có hạt giống thiên tài bực này, nếu trong đám hoàng tử còn lại của trẫm có một đứa như hắn, trăm năm sau trẫm chẳng phải lo nữa!”
Hoàng đế dám nói, Hạ nội giám lại không dám tiếp lời. Đừng nói đến huyết mạch nhà họ Diệp so với hoàng gia thế nào, chỉ riêng chữ “còn lại” đã khiến Hạ nội giám run lên. Nguyên Trị đế quả nhiên vẫn hướng về Thái tử, mất Thái tử, trong đám hoàng tử còn lại chỉ Ngũ hoàng tử là có một hai phần thông minh, nhưng quá nghịch ngợm—
Hạ nội giám không dám xen vào chuyện lập trữ, chỉ cười làm lành: “Diệp nhị công tử cũng là ỷ vào bệ hạ bao dung nên mới vậy ạ.” Nếu Nguyên Trị đế thật sự muốn gây khó dễ thì sẽ không để Diệp Kinh Hoa đứng ngoài, cũng chẳng chỉ đứng nửa khắc.
Nguyên Trị đế cười khẽ rồi lắc đầu, đưa cuộn giấy cho hạ nhân, song lại liếc Hạ nội giám: “Ngươi nói tiểu Ngũ gặp Tuệ Khanh ở cửa cung.”
Chuyện này đương nhiên không qua nổi mắt của Nguyên Trị đế, Hạ nội giám gật đầu: “Dạ.” Nguyên Trị đế hừ lạnh: “Tiểu Ngũ khóc nháo, hắn có quản không?”
“Cái này…” Nụ cười của Hạ nội giám cứng đờ.
Nguyên Trị đế vừa nhìn đã biết chắc chắn Diệp Kinh Hoa không thèm quản, tay phải ông đập mạnh lên bàn: “Giờ hắn rõ ràng là muốn bo bo giữ mình, không muốn nhúng tay dù chỉ một chút! Khoa cử không thi, phong quan cũng không làm, giờ đến tiểu Ngũ cũng là mặc kệ được thì mặc— Trẫm thấy hắn đúng là muốn như lời đạo sĩ kia nói, sắp bay lên trời làm thần tiên thật rồi!”
Hạ nội giám thấy ông nổi giận thì vội khuyên: “Chuyện này cũng không trách Diệp nhị công tử được, là Ngũ điện hạ cứ kéo một người hầu mà Nhị công tử dẫn vào đi chơi, Diệp nhị công tử mới giận mà đi.”
“Ồ?”
Nguyên Trị đế nghe vậy thì nhướn mày, hơi ngạc nhiên: “Hắn sẽ vì người hầu mà nổi giận sao?”
Hạ nội giám nói: “Lần này là một gương mặt mới, hơn nữa còn là một đứa nhóc cực kỳ khôi ngô.”
Nguyên Trị đế nghe xong bèn chậm rãi quay người, ánh mắt rơi trên Hạ nội giám, hơi nheo lại: “Ngươi kể kỹ xem.”
Hạ nội giám bước tới vài bước, hạ giọng kể từ đầu đến cuối, cuối cùng nói: “Nô tài thấy Diệp nhị công tử rất để tâm cậu ta, mọi thứ đều chu đáo. Quần áo hay trang sức, thứ nào cũng cực tốt.”
Nguyên Trị đế khoanh tay trước ngực, ngón tay gõ lên cánh tay. Ông im lặng một lúc, lạnh giọng nói: “Trẫm biết ngay mà, tháng trước muốn gả Tĩnh Hoàn cho hắn, hắn nhất định không chịu, hóa ra là đang chờ người ở đây.”
Hạ nội giám nghe xong còn tưởng Nguyên Trị đế không vui vì Diệp Kinh Hoa từ chối công chúa vì một người hầu, ông ta không dám lên tiếng, chỉ cúi đầu đứng bên. Ai ngờ nửa khắc sau, Hạ nội giám lại nghe Nguyên Trị đế cười khẩy:
“Trẫm còn tưởng hắn thật là thần tiên, chẳng có thất tình lục dục cơ—”
Nguyên Trị đế trầm ngâm bước ra từ sau bàn, đi qua đi lại vài bước rồi dừng trước giá sách, nói: “Ngươi đi đi, chọn trong kho vài món đồ trẻ con thích chơi để gửi đến phủ hắn.”
Cái “hắn” này đương nhiên là Diệp Kinh Hoa. Hạ nội giám gật đầu vâng dạ, vừa định đi làm, Nguyên Trị đế bỗng quay lại: “Khoan.”
Hạ nội giám dừng chân ngẩng đầu, thấy Nguyên Trị đế nhíu mày, cúi đầu ngừng một lúc mới nói: “Chuyện này không ổn, đừng vội loan tin.”
Hạ nội giám hơi nghi hoặc. Theo ông ta thấy, Diệp Kinh Hoa có người hầu này bên cạnh là cơ hội tuyệt vời. Hoàng đế chỉ cần gửi chút đồ qua để tỏ ý biết sự tồn tại của người này, tức là nắm được nhược điểm của Diệp Kinh Hoa. Một kẻ hầu bình thường chẳng có gia thế gì, Hoàng đế muốn cậu ta sống thì sống, muốn chết thì dễ như bóp chết con kiến, vậy cũng chẳng lo Diệp Kinh Hoa không chịu đi thi nữa.
Nguyên Trị đế liếc mắt, biết ngay Hạ nội giám nghĩ gì, ông bèn phất tay: “Thôi thôi, cứ đợi thêm chút đã.”
Hạ nội giám không hiểu nhưng lại chẳng dám đoán ý vua, bèn gật đầu lui xuống.
Thái giám lớn tuổi duy nhất đủ tư cách nói cười với Hoàng đế vừa rời đi, thư phòng lập tức trở lại sự yên tĩnh. Nguyên Trị đế chắp tay sau lưng đi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài qua lớp giấy dán. Tuyết ở kinh thành đã tan nhiều, vài cành mai đỏ nở muộn vẫn bám trên nhánh, chậm chạp không chịu rơi.
Nguyên Trị đế trầm ngâm nghĩ– Nếu Diệp Kinh Hoa đã dẫn người đến, chắc chắn hắn biết ông sẽ phát hiện.
Thằng nhãi này giảo hoạt lắm, cha hắn là con cáo già xảo quyệt, bản thân hắn thì lòng dạ còn sâu hơn. Để phòng Diệp Kinh Hoa còn lá bài tẩy, phải quan sát kỹ thêm mới được.
—
Bên kia, Triệu Bảo Châu hoàn toàn không biết mình chưa bước chân vào cung đã có tên trước mặt đương kim thánh thượng.
Xe ngựa chậm rãi đi về Diệp phủ. Bánh xe vừa rẽ vào ngõ nhỏ, rèm xe bỗng bị vén lên, giọng Phương Lý từ ngoài vọng vào: “Thiếu gia, xe ngựa nhà họ Tào đỗ trước cửa phủ kìa.”
Triệu Bảo Châu nghe vậy ngạc nhiên quay đầu. Diệp Kinh Hoa nửa tựa trong xe, chậm rãi mở mắt.
Quả không ngoài dự đoán, vừa xuống xe, hai người đã thấy Tào Liêm nhíu mày đứng ở cửa. Nhìn Diệp Kinh Hoa và Triệu Bảo Châu cùng xuống xe, hắn ta ngẩn ra rồi bước nhanh tới, ánh mắt dừng trên người Triệu Bảo Châu một thoáng, sau đó quay sang nhìn Diệp Kinh Hoa, giọng gấp gáp: “Ngươi dẫn cậu ta vào cung rồi?”
Diệp Kinh Hoa xuống xe, kéo Triệu Bảo Châu ra sau lưng rồi mới thong thả ngẩng đầu: “Ừ.”
Hàng lông mày đen rậm của Tào Liêm lập tức nhướn cao, vì đang ở trước cửa phủ, hắn ta đành đè thấp giọng: “Ngươi điên rồi sao?!”
Triệu Bảo Châu mù mịt, thấy Tào Liêm sốt ruột như vậy thì lo lắng nhìn Diệp Kinh Hoa.
Diệp Kinh Hoa nhíu mày, lạnh lùng liếc Tào Liêm: “Ngươi muốn phát điên thì về Tào phủ mà phát.” Rồi lướt qua Tào Liêm, dẫn Triệu Bảo Châu vào phủ.
Tào Liêm tức đến muốn bóp nát cây quạt trong tay, hắn ta vội bước theo, vừa đi vừa mắng:
“Tốt lắm Diệp nhị, ta thấy ngươi sống tiêu dao quá nên đầu óc cũng thành cháo luôn rồi sao! Ngươi đợi đấy, ta có chuyện hay muốn kể với ngươi—”
Diệp Kinh Hoa bỏ ngoài tai lời Tào Liêm lải nhải. Hắn đi đến cửa thư phòng, nghiêng đầu nói với Triệu Bảo Châu: “Sáng nay ăn vội, chắc đệ đói lắm rồi, đi ăn cơm trước đã.”
Triệu Bảo Châu không hiểu Tào Liêm tức giận cái gì, cậu nhìn qua nhìn lại giữa hai người, sau đó mới gật đầu rồi rời đi. Tào Liêm lạnh mặt theo Diệp Kinh Hoa vào thư phòng, mở miệng đã là: “Câu đối Hoàng thượng bắt ngươi viết giờ đã truyền khắp ngõ ngách rồi.”
Diệp Kinh Hoa ngồi sau bàn khẽ ngẩng lên, sắc mặt vẫn không đổi. Tào Liêm thấy thế là biết ngay hắn đã đoán việc trong cung sẽ bị hoàng đế cố ý truyền ra, lông mày hơi giãn ra, cũng ngồi xuống trước bàn.
“Hoàng thượng làm đến nước này, xem ra là quyết tâm muốn ngươi năm nay ra làm quan.” Tào Liêm gõ ngón tay lên bàn, ngẩng lên nhìn Diệp Kinh Hoa: “Ta thấy ngươi nên sớm tính toán đi, giờ cách kỳ thi mùa xuân chưa đầy một tháng, nếu đến lúc đó không lấy được danh Trạng nguyên, ngươi để mặt mũi nhà họ Diệp chỗ nào?”
Theo Tào Liêm, Diệp Kinh Hoa đã bị “hoang phế” mất 3 năm. Ngày nào hắn cũng chỉ viết thơ nhàn tản, cầm mấy cuốn sách tạp chẳng biết từ đâu ra mà đọc, sống tiêu dao lâu, việc học hành sợ khó tránh khỏi lơ là. Giờ kinh thành bàn tán về “thần đồng sa sút” Diệp Kinh Hoa vốn đã nhiều, dù hoàng đế có muốn dùng hắn, hắn cũng phải chứng tỏ chút thực lực.
Tào Liêm nghĩ một lúc, trầm giọng: “Ta bảo này, giờ ngươi đến Dĩnh Dương tìm ông nội ngươi đi. Ôn tập bài vở, đến lúc chuẩn bị thi rồi về.”
Trong lúc hắn nói, nha hoàn đã bưng lên hai chén trà nóng. Diệp Kinh Hoa chậm rãi ngẩng đầu lên trong làn hơi nước mịt mù: “Ta không định đi thi.”
Giọng hắn nhàn nhạt. Tào Liêm ngẩng phắt lên, giận dữ: “Ngươi, ngươi——!” Không ngờ Diệp Kinh Hoa đến nước này rồi mà vẫn cố chấp. Tào Liêm hít sâu mấy hơi mới miễn cưỡng bình tĩnh lại, sau đó nhắm mắt thật chặt.
Hồi lâu sau, hắn ta thở dài, cúi đầu đặt hai tay lên bàn rồi khẽ nói: “Kinh Hoa, ngươi nói thật với ta đi. Ngươi cố chấp không vào quan trường, có phải vì… vì nhà họ Tào không.”
Trán Tào Liêm lấm tấm mồ hôi, gian nan lắm mới nói: “… Ta biết, từ khi Thái tử điện hạ mất tích, cha ta như bị ma ám. Trên triều ông ấy với Tể tướng đại nhân cứ như nước với lửa, còn đối xử với Thần phi nương nương—”
Tào Liêm nói đến đây thì ngừng lại. Hắn ta hít một hơi rồi mới ngẩng đầu: “Ta chỉ muốn nói, ngươi tuyệt đối đừng vì kiêng dè ta mà—”
Ai ngờ lúc ngẩng lên thì chỉ thấy Diệp Kinh Hoa liếc xéo mình, lông mày hắn hơi nhíu, trên mặt chỉ thiếu điều viết mấy chữ “ngươi nghĩ nhiều rồi”.
Tào Liêm nghẹn một hơi trong ngực, bỗng thấy việc vừa rồi mình muốn tâm sự với Diệp Kinh Hoa thật ngu xuẩn.
Diệp Kinh Hoa khẽ nhướn mày, cúi đầu nhấp ngụm trà: “Ngươi đừng nghĩ nhiều, chuyện này ta tự có cách.”
Tào Liêm thấy hắn cứ dửng dưng thế, ngọn lửa trong lòng lại “phừng” một cái bốc lên. Hắn ta cố kìm lửa giận: “Đã không kiêng dè nhà họ Tào, Hoàng thượng lại ép ngươi đến nước này, rốt cuộc sao ngươi vẫn cố chấp không đi thi vậy?”
Diệp Kinh Hoa bình tĩnh nhìn hắn ta, vừa định mở miệng, Tào Liêm đã cướp lời: “Đừng nói với ta cái gì mà công cao át chủ nhé! Mấy lời đó ngươi mang đi lừa đại ca ngốc nhà ngươi thì được, nhưng đừng hòng hù ta!”
Diệp Kinh Hoa đành ngậm miệng.
Tào Liêm thấy hắn quả nhiên định dùng lời đó lừa mình thì tức đến bốc khói, tay đập mạnh lên bàn: “Ngươi nói đi! Ta xem ngươi còn gì để nói!”
Bàn gỗ nam thượng hạng rung lên. Diệp Kinh Hoa nhíu mày, ngước mắt lên nhìn: “Đừng có trút giận lên đồ đạc nhà ta.”
Diệp Kinh Hoa lạnh lùng liếc qua, Tào Liêm giật mình, cơn giận giảm ba phần. Đúng là tiểu viện này tuy trông lạnh lẽo, nhưng đồ mà Hoàng thượng ban trong phòng không ít, lỡ có đập hỏng thì hắn ta chưa chắc đã đền nổi.
Tào Liêm hậm hực rút tay về, cố tỏ vẻ giận dữ: “Ngươi nói xem, chuyện đến nước này rồi, ngươi định thu xếp thế nào?”
Theo hắn ta thấy, hành động hôm nay của hoàng đế chẳng khác gì tối hậu thư. Giờ có thể bắt Diệp Kinh Hoa viết câu đối tỏ lòng trung quân, nếu hắn còn cứng đầu không đi thi, lần sau e không chỉ là viết một câu đối nữa đâu.
Diệp Kinh Hoa đẩy chén trà sang bên, lật một cuốn sách giải trí ra xem: “Không cần ngươi lo.”
Tào Liêm máu dồn lên não, tức đến đau tim. Hắn ta đúng là điên mới đến phí lời với Diệp Kinh Hoa! Lòng tốt xem như cho chó ăn! Tào Liêm không nhịn nổi, “vèo” một cái đứng dậy, chỉ vào Diệp Kinh Hoa mắng:
“Ngươi đừng tưởng ta không biết ngươi nghĩ gì! Diệp nhị, kiếp trước ngươi là ma lười đầu thai, chỉ muốn sống tiêu dao nhàn hạ, sống chết của người khác ngươi chẳng màng đúng không!”
Diệp Kinh Hoa xem như chó điên sủa, tay cầm sách, vẫn không ngẩng đầu: “Tiễn khách.”
Hai nha hoàn lập tức tiến đến mời Tào Liêm ra ngoài. Tào Liêm gạt tay họ, không cam lòng: “Diệp nhị, ngươi nghĩ kỹ đi, mấy năm nay cả kinh thành bàn tán về ngươi không ít, nếu ngươi thật sự cả đời không làm quan, há chẳng phải càng đúng ý họ sao? Đến lúc đó, chẳng biết họ còn nói về ngươi thế nào nữa— ngươi không có chí lớn, nhưng vẫn phải tranh chút tiếng tăm chứ!”
Diệp Kinh Hoa nghe vậy bèn chậm rãi ngẩng đầu, khẽ nhướn mày: “Họ là ai? Đáng để ta tranh à?”
Gương mặt đẹp như ngọc của Diệp Kinh Hoa không có nhiều sự dao động, nhưng vô thức lại toát ra một nét kiêu ngạo, như thể chẳng ai trên đời đáng để hắn quan tâm. Lời người đời chỉ như gió thoảng mây bay, chỉ mình hắn an yên một góc, tiêu dao tựa thần tiên.
Tào Liêm câm nín, muốn phản bác mà chẳng tìm ra lý do, bị nghẹn đến tím cả mặt. Hai nha hoàn vội một trái một phải kéo hắn ta ra ngoài.
Tào Liêm đến đây mà ôm một bụng tức, bị kéo đến cửa Diệp phủ, bèn nhổ mạnh xuống đất, chỉ vào cửa phủ mắng: “Diệp Kinh Hoa! Cái ổ chó này, ta không bao giờ đến nữa!”
Nói đoạn lập tức vung tay áo lên xe đi mất.
Hai nha hoàn tiễn hắn ta ra cửa xong thì quay lại bẩm báo: “Tào đại nhân giận lắm, nói sẽ không đến nữa ạ.”
Diệp Kinh Hoa tự xem sách, lật một trang: “Không cần để ý tới hắn.”
Nha hoàn lại nói: “Bảo Châu đang đợi ở ngoài ạ.”
Diệp Kinh Hoa lập tức ngẩng đầu: “Bảo Châu?” Rồi đặt sách xuống, đứng dậy ra trước thư phòng. Lúc vén rèm lên, quả nhiên thấy Triệu Bảo Châu đứng dưới chân tường, tay ôm một đĩa điểm tâm, đầu cúi xuống.
Nghe thấy tiếng động, cậu lập tức ngẩng mặt, thấy là Diệp Kinh Hoa, gương mặt hơi đỏ lên vì lạnh lộ chút ý cười:
“Thiếu gia.”





Nghe tên là muốn gặp liền
Ẻm ngoan quá chừng huhuhu