Skip to main content
[Edit-OG] Gian thần có chết cũng không hối lỗi –
Chương 7

Cách thuần hóa chó hoang

Tướng phủ có một vị khách không mời mà đến đang chờ Cố Hoài Ngọc.

Từ công công xuất cung gấp đến nỗi chưa kịp thay cả y phục thái giám, đứng ngồi không yên, đi tới đi lui trong đại sảnh của Tướng phủ.

Vừa thấy bóng dáng Cố Hoài Ngọc, Từ công công nhanh bước tới đón: “Tướng gia của ta! Ngài về rồi!”

Cố Hoài Ngọc thấy lão mồ hôi đầm đìa, trong lòng cũng căng thẳng theo, “Có chuyện gì?”

Từ công công phải hít mấy hơi sâu mới nói tiếp: “Từ hôm ngài rời cung dặn dò bệ hạ phải chăm lo việc nước thì bệ hạ đã thật sự khắc ghi trong lòng! Những ngày qua, bệ hạ mất ăn mất ngủ, hầu như chưa từng chợp mắt!”

Ánh mắt Cố Hoài Ngọc u ám, y vốn mong tên súc sinh này có thể cống hiến cho đất nước, đừng như cha hắn chỉ biết ăn chơi sa đọa.

Từ công công lau mồ hôi trên trán, hạ thấp giọng, “Mấy ngày qua bệ hạ không có giây phút nào rảnh rỗi. Sau lâm triều lại tiếp kiến đủ kiểu quan lại đại thần, xử lý chính vụ, duyệt xét tấu chương, rồi còn theo học Thái phó, học tập đạo vua phép nước.”

“Đến khi đêm xuống, bệ hạ vẫn ngồi dưới đèn đọc sách, mỗi ngày chỉ ngủ chừng hai ba canh giờ, tự vắt kiệt sức mình!”

Nói tới đây, giọng điệu Từ công công gấp gáp, “Tướng gia! Bệ hạ quá sức như thế, cuối cùng đêm qua không chịu nổi, đã sốt cao rồi.”

“Thái y nói bệ hạ lao lực quá độ, phải tĩnh dưỡng, nhưng ngài ấy đâu chịu nghe? Lúc thì bảo mang tấu chương tới, lúc lại đòi truyền Thái phó! Trong cung không ai khuyên nổi cả!”

“Vì vậy lão nô mới vội chạy tới tìm ngài. Bệ hạ nghe lời ngài nhất, xin ngài hãy khuyên ngài ấy!”

Đúng lúc Cố Hoài Ngọc cũng có chuyện cần bàn với Nguyên Trác, bèn phất tay gọi gia nhân, “Thay y phục, chuẩn bị kiệu.”

Cuối cùng Từ công công cũng thở phào nhẹ nhõm, cùng tiến cung theo Cố Hoài Ngọc. Đến cửa Sùng Chính Điện, lão cẩn thận đẩy cửa ra.

Trong điện nồng đượm mùi thuốc thang, mảnh sứ vỡ rải đầy sàn, thuốc đổ loang lổ thấm vào thảm dày, nhuộm thành một mảng nâu sẫm.

Cung nữ và thái giám quỳ thụp trước rèm vàng, toàn thân run lẩy bẩy như cành liễu trong gió.

“Choang!”. Một tiếng giòn vang, trong màn thò ra bàn tay gạt đổ chén thuốc.

Giọng khàn khàn của thiếu niên Thiên tử vọng ra: “Đem đi! Trẫm không có bệnh, mau truyền Thái phó vào gặp trẫm!”

Cố Hoài Ngọc bước qua cung nữ và thái giám, nói, “Đừng quỳ nữa, lui cả đi.”

Nghe giọng y, Thiên tử lập tức ló đầu ra khỏi rèm. Khuôn mặt tuấn tú bị cơn sốt hun đỏ, trên trán quấn dải khăn vàng, “Sao khanh đến đây?”

Các cung nữ và thái giám như được đại xá, đứng dậy lui xuống.

Thiên tử nhìn Từ công công phía sau Cố Hoài Ngọc, khóe môi đang cười thoáng chốc tắt hẳn, “Có phải lão gọi khanh tới không?”

Cố Hoài Ngọc bước đến bên long sàng, duỗi tay thử nhiệt độ cổ hắn, nóng hầm hập như một lò than nhỏ, “Là ta tự tới, chẳng liên quan gì đến lão.”

Bàn tay mát lạnh kia khiến Thiên tử giật mình, cả người càng thêm bỏng rẫy. Hắn chỉ mặc áo lót mỏng manh, tóc búi xốc xếch, vội ngồi thẳng người, “Trẫm thất lễ rồi.”

“Người đâu! Hầu trẫm thay y phục…”

“Bệ hạ cứ nằm đi.”

Cố Hoài Ngọc ấn xuống cánh tay vừa nhấc lên. Hình như lần trước thiếu bị y dọa sợ nên vừa chạm vào đã không dám nhúc nhích, nằm lại giường.

Đôi mắt đen láy của Thiên tử nhìn y chốc lát, nhưng khi ánh mắt Cố Hoài Ngọc liếc sang thì lập tức dời đi, duỗi tay cầm tấu chương bên giường, “Đây là mật tấu của Tiết độ sứ ở Tịnh Châu, Đông Liêu muốn mở lại phiên chợ cuối năm, khanh thấy sao?”

Cố Hoài Ngọc đã đọc từ sớm rồi, rút lấy ném “bộp” xuống sàn, “Khinh người quá đáng, không thể.”

Thiên tử lại rút từ dưới gối ra một bản luyện chữ, đưa y xem, “Mấy ngày nay trẫm luyện theo chữ ‘phi bạch’ của khanh, khanh thấy có tiến bộ chăng?”

Cố Hoài Ngọc cầm lấy, lật vài trang rồi lắc đầu hỏi: “Sao lại luyện chữ của ta?”

Thiên tử ngạc nhiên rồi nhỏ giọng đáp: “Chữ khanh đẹp mà.”

Cố Hoài Ngọc nhướng mày, chỉ vì đẹp thôi ư?

Mấy hôm trước Đổng thái sư còn lén mắng y thậm tệ suốt một canh giờ vì chữ viết quá giống với Thiên tử. Bảo y cố ý bắt chước chữ của Thiên tử, tấu chương chẳng phân nổi lời phê ai viết, rồi tên gian tặc này rắp tâm ra sao nữa cơ!

Thấy y im lặng, Thiên tử bèn khép bảng luyện chữ, cẩn thận nhét lại dưới gối rồi hỏi tiếp, “Trẫm xem tấu chương khanh đưa rồi, Lý ngự sử dâng sớ buộc tội phủ Tri Châu Dương Châu tham ô, khanh thấy nên xử lý thế nào?”

Hắn gần như gấp gáp hỏi câu tiếp theo, tựa như chẳng muốn dừng một phút giây nào, sợ Cố Hoài Ngọc dời sự chú ý khỏi chuyện triều chính.

Không ai hiểu con bằng cha, Cố Hoài Ngọc cũng đoán được toan tính của hắn. Y nhàn nhạt hỏi ngược lại: “Bệ hạ nghĩ sao?”

Thiên tử thoáng khựng rồi nói: “Trẫm không biết, trẫm chỉ quen các quan trong kinh, còn chuyện ngoài kinh thành thì không rõ lắm.”

Cố Hoài Ngọc rũ mắt nhìn hắn, “Lý ngự sử nhát gan thận trọng, không nắm chắc thì không dâng sớ.”

“Ý khanh là chứng cứ Tri Châu tham ô vô cùng xác thực?”

“Chắc vậy. Có điều… một Tri Châu nhỏ bé ngũ phẩm mà dám tham ô, quan hệ phía sau rắc rối khó gỡ, trong triều có rất nhiều kẻ ăn của đút của gã. Bệ hạ muốn bảo toàn tính mạng cho Lý ngự sử thì phải lập tức cử người đón hắn vào kinh, kẻo chết oan uổng.”

Thiên tử nghiêm túc nghe y nói, giơ tay khẽ nắm tay áo y, “Khanh nghĩ chu đáo quá, trẫm không xa nổi khanh dù chỉ một ngày.”

Cố Hoài Ngọc cứ thế nhìn Thiên tử tốn công tốn sức lấy lòng mình, nhưng không biết mục đích của hắn rốt cuộc là gì? 

Giả vờ hòa thuận, hay giấu mình chờ thời?

Từ công công rón rén dâng bát thuốc mới sắc: “Mời bệ hạ uống thuốc ạ.”

Hoàng đế liếc sang Cố Hoài Ngọc bên giường, chưa kịp mở lời thì Cố Hoài Ngọc đã cười như không cười hỏi: “Bệ hạ muốn ta đút ngài sao?”

“…Không cần làm phiền khanh.”

Thiên tử lập tức ngồi dậy, không dám chậm trễ, cầm bát thuốc ngửa đầu uống cạn.

Từ công công nhân cơ hội len lén cảm ơn nhìn Cố Hoài Ngọc.

Cố Hoài Ngọc lắc đầu ra hiệu không cần, y cầm lấy khăn gấm trong khay đưa cho Thiên tử, “Bệ hạ nghỉ ngơi cho khỏe đi.”

Hoàng đế lau môi, ngoan ngoãn nằm xuống: “Trẫm không bệnh, trẫm còn trẻ, sức khỏe dồi dào.”

Cố Hoài Ngọc không buồn tranh cãi, nhắc: “Công việc trong cung bề bộn, dù bệ hạ bận trăm công nghìn việc nhưng cũng phải chăm lo cho sức khỏe.”

“Trẫm thường đá cầu trong cung, nhưng khanh chưa bao giờ đến xem.”

Thiên tử ngước mắt nhìn y, rồi cụp xuống: “Khanh mới là người bận tối mày tối mặt.”

Cố Hoài Ngọc không vòng vo, hỏi thẳng: “Bệ hạ có muốn học cưỡi ngựa bắn cung không?”

Vừa dứt lời, sao Thiên tử đã đáp ngay chẳng nghĩ ngợi: “Trẫm muốn.”

Từ công công đang dọn dẹp mảnh sứ đầy sàn, nghe vậy lo lắng hỏi: “Cưỡi ngựa bắn cung? Không làm bệ hạ bị thương chứ?”

Văn nhân triều Thần chuộng đá cầu văn nhã, hiếm ai học cưỡi ngựa bắn cung. Truyền thống này bất nguồn từ Thái Tổ hoàng đế khởi nghĩa từ quan võ mà giành được thiên hạ, nên tất nhiên có sự kiêng dè với tất cả quan võ. Có lời dạy bất thành văn của tổ tiên là “trọng văn ức võ”.

Qua trăm năm, địa vị quan võ ngày càng thấp kém, chẳng những không được tham gia nghị sự triều chính mà gặp quan văn cùng cấp còn phải hành lễ.

Thế nên đá cầu là hành vi tao nhã với văn nhân, còn quan võ giỏi cưỡi ngựa bắn cung bị xem là tài nghệ phụ. Nếu một văn nhân dám giương cung bắn tiêu thì sẽ bị coi là hạ thấp thân phận.

Cố Hoài Ngọc mỉm cười, hỏi: “Bệ hạ có biết Đô ngự hầu Bùi Tĩnh Dật không?”

Thiên tử chỉ quen đại quan ngũ phẩm trở lên trong triều, huống gì một quan võ chẳng được tham gia nghị sự triều chính?

“Người đó là ai? Trẫm chưa nghe bao giờ.”

Từ công công vội chen lời: “Bệ hạ, trong dân gian ai cũng biết vị Bùi tướng quân này! Nghe đồn hắn ba mũi tên đã dẹp yên núi Ngô, dọa cho người Đông Liêu phải quỳ xuống kêu thần giáng thế!”

Thiên tử theo bản năng nhìn Cố Hoài Ngọc như muốn hỏi “Sao ta không biết triều thần có nhân vật thế này nhỉ?”

Cố Hoài Ngọc nhàn nhạt nói: “Đó là chuyện mười năm trước, lúc ấy bệ hạ vẫn còn là một đứa trẻ.”

Từ công công cũng gật đầu nói: “Đúng vậy! Lão nô cũng mới nghe mấy năm gần đây thôi. Năm đó cẩu tặc Đông Liêu tấn công núi Ngô, Bùi tướng quân này giương cung chỉ bắn ba mũi tên. Mũi tên thứ nhất bắn tan kỵ binh Đông Liêu, mũi tên thứ hai thiêu rụi lương thảo, mũi tên thứ ba bắn chết chủ soái Đông Liêu!”

Thiên tử nghe đến mức không chớp mắt, không kìm được ngồi bật dậy, “Thần kỳ thế à?”

Mặt mày Từ công công hớn hở nói, đầy vẻ đắc ý, “Lão nô chưa kể hết đâu. Vị chủ soái Đông Liêu kia còn là Hoàng thúc đấy! Bùi tướng quân chỉ ba mũi tên đã dọa người Đông Liêu sợ tè ra quần, ngỡ như võ thần hạ phàm, suốt đêm rút quân chạy về Đông Liêu. Thế là triều ta oai phong chấn động bốn phương!”

Cố Hoài Ngọc cười mỉa trong lòng, đúng là là nhân vật chính, chưa gặp mặt đã khiến người đời say mê truyền tụng.

Suốt trăm năm nay, triều Thần với Đông Liêu luôn như nước với lửa, nhưng bởi “lời dạy của tổ tiên” mà lê dân triều Thần khinh rẻ việc tòng quân. Nếu không bần cùng lắm thì chẳng ai chịu dấn thân vào con đường này.

Vì thế mà triều Thần binh yếu tướng ít, trăm năm nay chịu đủ sỉ nhục, buộc phải tiến cống cho Đông Liêu để cầu yên. Trong tấu chương do Tiết độ sứ ở Tịnh Châu dâng lên vừa rồi có cái gọi là “mở lại”, thực chất là ngày triều Thần phải tiến cống hằng năm cho Đông Liêu.

Đầu năm nay Cố Hoài Ngọc đã cho người dâng lễ vật cống nạp. Vậy mà chưa đến cuối năm, Đông Liêu lại vươn tay đòi bạc, chẳng phải là không giữ lời, khinh người quá đáng sao!

Trong dân gian, câu chuyện “tướng quân ba mũi tên dẹp yên núi Ngô” được lan truyền rộng rãi. Chỉ có vị tướng ấy mới khiến bách tính được nở mày nở mặt, thoại bản và hí kịch cải biên cứ lần lượt ra đời, bá tánh không ai không biết danh tiếng của Bùi Tĩnh Dật.

Thiên tử chậm rãi chớp mắt. Trò giỏi do Cố Hoài Ngọc dạy dỗ chẳng ngốc chút nào, “Nếu đã vậy, sao hắn lại ở kinh thành làm quan?”

Từ công công cứng họng, nhìn Cố Hoài Ngọc cầu cứu.

Cố Hoài Ngọc không muốn nhắc đến Duệ đế, bèn hỏi lại: “Bệ hạ có muốn học cưỡi ngựa bắn cung với Bùi tướng quân không?”

Ánh mắt Thiên tử lập tức sáng bừng. Dẫu sao vẫn là thiếu niên, chẳng giấu nổi lòng ngưỡng mộ vị anh hùng trong truyền thuyết kia, “Trẫm nguyện ý.”

Cố Hoài Ngọc quyết định luôn, vỗ mu bàn tay Thiên tử, “Khi bệ hạ khỏe hẳn, hãy triệu Bùi Tĩnh Dật vào cung, dạy bệ hạ cưỡi ngựa bắn cung.”

Thiên tử nghi nghi nắm ngón tay y, ánh sáng trong mắt càng rực rỡ, “Lúc ấy khanh cũng sẽ đến chứ?” 

Cố Hoài Ngọc khẽ gật đầu: “Đương nhiên.”

Từ hôm thức tỉnh, y vẫn thường suy tính phải làm sao mới khiến Bùi Tĩnh Dật ngoan ngoãn trở thành “túi máu” để y khống chế.

Nếu đem quyền thế ra uy hiếp, bắt vài người bạn của Bùi Tĩnh Dật để đe dọa, tuy thẳng thắn nhưng quá thô bạo.

Y khinh thứ thủ đoạn ngang ngược này, huống gì ép buộc quá đà với người như Bùi Tĩnh Dật chỉ khiến hắn cắn ngược lại thôi.

Theo lời Thái y, muốn hoàn toàn giải sạch hàn độc trong người thì phải uống máu Cửu Lê mỗi tháng một bát, liên tục đủ mười hai tháng mới có thể chữa khỏi hẳn.

Cả một năm dài tất khó tránh khỏi biến số. Sức hút của nam chính lan tỏa khắp nơi, e rằng còn chưa kịp uống được mấy bát máu, y đã sớm chầu trời rồi.

Còn cầu xin tha thiết ấy à?

Có chăng Bùi Tĩnh Dật sẽ chịu hiến máu cứu người, nhưng tuyệt đối sẽ không vì Cố Hoài Ngọc.

Ai chẳng biết tội ác tày trời của Cố tướng? Y mang tiếng xấu, tội trạng vô số, ai đời lại đi thương hại y?

Từ đầu Cố Hoài Ngọc đã không nghĩ đến con đường này, bởi vậy mới khiến Chu Thụy An thành người phế.

Cứng rắn không được, mềm mỏng cũng chẳng xong, thì chỉ còn cách nhân từ vừa phải. Y muốn thử thuần phục con sói hoang mang tên Bùi Tĩnh Dật.

Muốn biến một con sói dữ thành chó ngoan, thì phải chuẩn bị sẵn roi và chuồng giam.

Y đã ném miếng mồi để dẫn sói vào rồi, giờ chỉ còn chờ con sói sa chân vào bẫy.

___

29/9/2025.

19:50:06.

Để lại một bình luận

* Chú ý: Những bình luận vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng sẽ bị xóa kèm quà tặng.