Skip to main content
Sau khi bị ép debut giới huyền học thì tôi hot –
Chương 46: Miếu hoang trong mưa bão – 8

Có thể thấy đạo sĩ trung niên nói không sai, miếu Sơn Thần quả thật có hương hỏa vượng vì được cúng bái liên tục. Nơi đây rộng lớn khang trang hơn bất kỳ ngôi miếu Sơn Thần nào mà Yến Thời Tuân từng gặp trước đây, đủ thấy nguồn tài chính dồi dào đến mức nào.

Yến Thời Tuân vừa bước vào đại điện đã ngửi được mùi hương trầm nồng nặc. Lư hương trước tượng thần cũng đầy ắp tro hương như vẫn còn vương vấn không khí náo nhiệt của ban ngày. Cả những dải lụa màu sắc tươi tắn chưa phai màu trong điện cũng cho thấy vừa tổ chức một buổi hội miếu cách đây không lâu.

Dàn khách mời đang nghỉ ngơi trong các phòng bên cạnh sân, đạo sĩ trung niên và hai người đàn ông thì đang trò chuyện rôm rả trong phòng nhỏ của họ. Mưa lớn như tấm màn dày ngăn cách hết mọi âm thanh từ bên ngoài khiến ánh sáng cũng trở nên mờ nhạt, giữa đại điện rộng lớn chỉ còn tiếng thở nhẹ của Yến Thời Tuân vang lên trong không gian. Mượn ánh sáng yếu ớt hắt vào từ bên ngoài, cậu ngẩng đầu quan sát kỹ từng góc trong đại điện, bước chân nhẹ tênh gần như không nghe thấy. Trận mưa như trút nước đột ngột không chỉ cắt đứt lịch trình của tổ chương trình mà còn làm rối loạn cả đoàn xe. Khi buộc phải tá túc ở một vùng ngoại ô xa lạ Yến Thời Tuân cảnh giác hơn bao giờ hết, từ lúc gặp hai người đàn ông dân làng trên đường cậu đã luôn âm thầm quan sát.

Khi không ai hay biết, Yến Thời Tuân cũng gieo quẻ hỏi thần, lễ phép thông báo sự có mặt của đoàn mình với Sơn Thần địa phương xem như khách lạ tới chơi lễ phép chào hỏi chủ nhà, mong được phù hộ bình an. Cậu cũng muốn hỏi Sơn Thần xem khi nào thì trận mưa lớn này sẽ tạnh.

Việc Trương Vô Bệnh không ở đây khiến cậu mơ hồ cảm thấy có gì đó sai sai, tính đợi trời sáng mưa tạnh rồi lập tức đi hội họp với hai xe còn lại.

Nhưng, Sơn Thần không hề cho Yến Thời Tuân bất kỳ phản hồi nào.

“Vọng vu sơn thủy, biến vu quần thần.”*

*khấn vái khắp núi sông, cầu xin các vị thần

Với người dân địa phương, Sơn Thần ở mỗi vùng là một tồn tại quan trọng hơn bất kỳ vị thần tiên nào khác. So với các vị tiên gia cao vời vợi, Sơn Thần vốn sinh ra từ núi rừng sông suối, che chở một phương, phù hộ mưa thuận gió hòa, đất đai trù phú, tà ma chẳng dám bén mảng.

Người dân cũng tin kính Sơn Thần hết mực, cúng bái và ăn mừng sự ra đời của Sơn Thần. Họ xây miếu Sơn Thần trên núi hoặc coi cây cổ thụ trong làng là hóa thân của Sơn Thần, khoác lụa đỏ lên thân cây, buộc dây đỏ, bày tỏ những ước nguyện tốt đẹp và lòng biết ơn đối với Sơn Thần. Rất nhiều nơi cho đến bây giờ vẫn giữ được những truyền thống này.

Mặc dù nhiều nơi do khai thác quá mức hoặc tín ngưỡng mai một, Sơn Thần sớm đã dần biến mất nhưng từ khi đặt chân đến đây, Yến Thời Tuân đã cảm nhận rõ hơi thở nồng đậm của Sơn Thần. Cứ như khắp nơi đều là con dân của Sơn Thần khiến thần lực và quyền năng của Sơn Thần đạt đến đỉnh cao, hệt như cái thời còn phụ thuộc vào thần linh và trời đất ngày xưa ấy.

Thế nhưng, một vị Thần hùng mạnh như thế lại không hề phản hồi lời viếng thăm và hỏi han của Yến Thời Tuân, cứ như Ngài chưa từng tồn tại ở đây vậy. Chính sự mâu thuẫn này khiến Yến Thời Tuân bắt đầu sinh nghi. Có lúc cậu còn nghĩ Sơn Thần đã rời đi chỉ để lại một cái “thần vị” rỗng tếch, khiến cậu lầm tưởng vẫn còn thần trấn giữ.

Nhưng mà… miếu Sơn Thần đang đứng sờ sờ trước mắt lại tự tay phủi sạch mối nghi ngờ đó. Từ miếu Sơn Thần hương khói nghi ngút đến quy mô khang trang, từ ông đạo sĩ trung niên quản lý miếu đến lời kể của hai người đàn ông về tầm quan trọng của miếu Sơn Thần trong làng và sự náo nhiệt của hội miếu, tất cả đều chứng minh đây là một ngôi miếu sống và linh thiêng.

Mà đã “linh”, thì không thể vô chủ.

Vậy tại sao không phản hồi cậu… vấn đề tính cách sao? Chẳng lẽ Sơn Thần ở đây có tính bài ngoại, không nhiệt tình với người ngoài?

Yến Thời Tuân cau mày, cảm thấy suy nghĩ của mình còn thiếu rất nhiều mảnh ghép khiến cậu khó lòng sắp xếp mọi chuyện một cách hoàn chỉnh.

Miếu Sơn Thần thường do dân làng tự quyên góp tiền xây dựng và bảo trì, danh tiếng thường chỉ giới hạn trong vòng vài dặm. Vậy nên so với các đạo quán hay chùa chiền thì cấu trúc và việc sửa sang miếu Sơn Thần thường không được tốt, trang trí cũng gần gũi hơn, mang đúng nét đặc trưng văn hóa dân gian địa phương và gu thẩm mỹ mộc mạc, nhiệt thành của người dân quê. Nhưng những gì Yên Thời Tuân đang thấy lại là một đại điện được trang hoàng lộng lẫy. Trên tường và trần nhà vẽ đầy những bức tranh màu về con người sống động như thật – mô tả lại sinh hoạt đời thường của dân làng. Từng nhân vật có cử chỉ riêng, mặc đồ khác nhau, nét mặt chẳng ai giống ai, nhìn thoáng qua là có thể nhận ra họ là những người khác nhau, sinh động đến mức giống như giây tiếp theo những người này sẽ bước ra khỏi bức tường ấy.

Không chỉ có người, trong tranh còn vẽ ruộng đồng, nhà cửa, gà vịt gia súc, thậm chí cả khói bếp lượn lờ bay lên từ mái nhà và rừng núi phía xa xa cũng được miêu tả tỉ mỉ hết sức chi tiết, tinh xảo và giống thật đến mức khiến người xem không khỏi cảm thán về sự giàu có của ngôi làng này và mức độ bảo tồn nguyên vẹn văn hóa Sơn Thần.

Nhờ thị lực cực tốt nên Yến Thời Tuân thấy rõ trên trần nhà vẽ rất nhiều hình ảnh động vật, có cảnh chúng chạy nhảy giữa cỏ cây, có cảnh chúng chắp tay vái lạy thần. Mặc dù rất ít miếu Sơn Thần vẽ kiểu này nhưng Yến Thời Tuân hiểu đây là muốn bày tỏ không chỉ dân làng sống ở đây mà ngay cả muông thú cũng được Sơn Thần che chở và cùng kính ngưỡng thần linh.

Thế nhưng khi ánh mắt cậu di chuyển sang bên cạnh thì chợt khựng lại, có gì đó lạ lạ. Ở chính giữa trần nhà, ngay vị trí trên đầu tượng thần là bức tranh vẽ một con vật đang ngồi xổm trên tảng đá trên đỉnh núi, những con vật khác đều có vẻ như đang chắp tay vái lạy nó. Nếu nhìn tổng thể cả đại điện sẽ giống như toàn bộ dân làng và sinh vật trong tranh… đều đang vái lạy bức tranh đó. Chẳng lẽ người xây miếu Sơn Thần tìm được một thợ vẽ tay nghề tốt nhưng lại không am hiểu lắm về văn hóa dân gian ư? Yến Thời Tuân cảm thấy nghi ngờ.

Cậu đi một vòng quanh đại điện nhưng không phát hiện ra điều gì bất thường, bèn tạm thời cất hết mọi nghi vấn trong lòng mà quay bước rời đi.

Trên những bức tranh tường ẩn mình trong bóng tối xung quanh, các nhân vật trong tranh đều đảo tròn đôi mắt được chấm bằng mực vẽ, vặn vẹo cổ, đồng loạt chĩa ánh mắt về phía Yến Thời Tuân, xoay cổ theo từng bước chân của cậu. Ánh mắt… không rời nửa giây.

Từ bà nông dân dắt con đi chợ, đứa trẻ nghịch ngợm trốn sau cánh cửa, dân làng trồng trọt trên đồng, thậm chí cả gà vịt ngỗng chó, trâu bò gia súc… Tất cả sinh linh được vẽ trong tranh tường đại điện đều đồng loạt nhìn chằm chằm Yến Thời Tuân.

Trang phục của họ màu sắc sặc sỡ, trên má còn vẽ hai vệt má hồng đỏ chói. Dưới ánh sáng mờ ảo nhòe nhòe trông vô cùng quỷ dị rợn người y như có luồng khí lạnh từ ngoài mưa thấm vào len lỏi theo từng kẽ gạch đỏ đen dưới sàn, lặng lẽ bò vào đại điện…

“Roẹt…”

Đúng lúc Yến Thời Tuân vừa nhấc chân định bước ra khỏi bậc cửa đại điện, một tiếng động nhỏ khẽ vang lên. Nhỏ lắm, nhưng trong không gian im phăng phắc thì nghe rõ mồn một.

Yến Thời Tuân cũng quay ngoắt đầu ngay lập tức, ánh mắt sắc như dao phóng thẳng về phía nguồn âm thanh, mọi thứ vẫn lặng như tờ, tranh trên tường vẫn như lúc Yến Thời Tuân vừa thấy. Cậu nhìn về phía tượng thần nơi vừa phát ra tiếng động, hàng lông mày sắc nét nhíu chặt.

Chuột à?

Nhưng Yến Thời Tuân không vì suy đoán của mình mà xua tan nghi ngờ. Trái lại, bước chân dài sải một phát tiến thẳng đến gần bức tượng.

Tượng Sơn Thần giữa miếu được xây dựng vô cùng hoành tráng toàn thân dát vàng, khoác vải đỏ giống y các tưởng tượng dân gian về một vị thần hộ dân. Tượng thần cao ngất ngưởng khuôn mặt dữ tợn giận dữ trông không giống Sơn Thần hiền lành mà như kiểu chiến thần dùng sức mạnh để bảo vệ dân làng. Ngay từ khi bước vào đại điện, Yến Thời Tuân đã cẩn thận quan sát pho tượng Sơn Thần này rồi. Mặc dù tượng thần mắt giận dữ không phổ biến nhưng không phải là không có. Có lẽ vì thường xuyên bị sói hoang quấy phá ở gần đỉnh Dã Lang nên dân làng quanh đây mới mong Sơn Thần bảo vệ họ là một vị thần dũng mãnh chăng. Yến Thời Tuân nghĩ vậy nên thấy không có gì đáng nghi.

Cho đến bây giờ, vì tiếng động kia mà lại gần hơn… Cậu mới sững người.

—— Đằng sau pho tượng dát vàng to tổ bố này lại có một khoảng trống nhỏ!

Yến Thời Tuân nhanh chóng đi vòng qua phía sau lưng bức tượng, bước chân cậu khẽ khựng lại, đôi mắt hẹp dài sắc bén mở to vì kinh ngạc.

Mặt sau của pho tượng thần dát vàng còn có một pho tượng thần nhỏ khác! Không giống pho tượng sáng chói hướng về phía đại điện được dân làng cúng bái hương khói đầy đủ, pho tượng gỗ nhỏ này lưng quay về phía đại điện, giấu mình đi, cũ nát đến thảm hại, thậm chí còn bị lớp bụi dày và mạng nhện bao phủ.

Thay vì gọi là tượng thần thì nó trông giống một món đồ cổ bị bỏ rơi và lãng quên hơn. Thời gian cùng mưa gió đã bào mòn đôi tay tròn trịa và ánh mắt từ bi nhân ái của pho tượng, nhưng từ những đường nét mềm mại còn sót lại vẫn có thể nhìn ra khi người thợ thủ công chạm khắc pho tượng này cách đây hàng trăm năm đã mang một trái tim tôn kính đến nhường nào, tỉ mỉ điêu khắc, mài dũa tạc ra hình dáng vị thần trong tâm trí và ánh mắt họ.

Mà giờ đây phần đầu của pho tượng đã bị hư hại nghiêm trọng, bị chuột gặm nhấm để lại những vết răng cưa lởm chởm chỉ còn nửa con mắt là lành lặn. Một vết nứt kéo dài từ đỉnh đầu đến tận đế tượng, phần gỗ mục nát vẫn cố gắng giữ cho toàn bộ bức tượng không đổ sập nhưng với tình trạng này thì chẳng biết bao giờ nó sẽ “rắc” một cái rồi tan tành xác pháo.

Yến Thời Tuân nhìn pho tượng ấy thật lâu, sau đó khom lưng giơ tay nhẹ nhàng phủi đi mạng nhện bám trên tượng, cố gắng làm cho pho tượng hiện rõ hình dạng. Ngay lúc ấy, một mẩu gỗ vụn từ vết nứt gần mắt tượng rơi xuống nằm gọn trong lòng bàn tay Yến Thời Tuân.

Tựa như thần linh đang rơi lệ.

Yến Thời Tuân sững sờ.

“Là tượng thần cũ sao?” Yến Thời Tuân thấp giọng hỏi, nghe như thật sự mong chờ bức tượng gỗ trước mặt đáp lại: “Có tiền sửa miếu, đúc tượng mới mạ vàng bóng loáng rồi vứt tượng cũ ở đây bụi bặm mạng nhện thế này à? Thiệt thòi rồi.”

Nói xong Yến Thời Tuân một tay kết ấn thỉnh thần, tay kia đỡ đế tượng, vững vàng nâng nó lên khỏi bệ thờ đầy bụi bẩn. Cậu vòng qua cái hốc nhỏ chật chội đầy bẩn thỉu ấy, đặt pho tượng gỗ nhỏ bé lên bệ thờ của pho tượng thần cao lớn, tạm thỉnh ra ngoài. Sau đó cậu lại bước ra phía sau pho tượng thần cao lớn, rút khăn tay trong người nhanh chóng lau sạch đám bụi đóng thành tầng kia.

Yến Thời Tuân đang tập trung vào việc dọn dẹp nên không nhìn thấy, ngay khoảnh khắc cậu quay lưng thì toàn bộ đại điện bỗng chốc thay đổi. Tất cả các hình ảnh nhân vật trên tường đều lộ ra vẻ sợ hãi, lùi vài bước vào sâu trong tranh, thậm chí có không ít nhân vật ẩn mình trong các kiến trúc được vẽ bên cạnh, không dám lộ diện. Còn những con vật trên tranh tường và trần nhà thì thoắt cái trở nên hung dữ, nhe nanh múa vuốt, có con còn vươn những chiếc móng sắc nhọn ra như muốn thò ra khỏi bức tranh mà cào về phía pho tượng nhỏ bị hư hại kia.

“Yến… Thời Tuân?”

Ngoài đại điện, một giọng nam trầm thấp đầy nam tính bỗng vang lên, gọi tên Yến Thời Tuân.

Mọi thứ trong tranh lập tức trở lại bình thường.

Tay Yến Thời Tuân đang chăm chú lau dọn bệ thờ thoáng khựng, bực bội “Chậc” một tiếng. Chỉ nghe cách ngắt nhịp và phát âm đó thôi là cậu đã nhận ra ai đang gọi mình rồi. Là cái tên trợ lý đạo diễn mà cậu không ưa cho lắm chứ ai.

Thằng cha trợ lý đó mỗi lần đọc tên cậu đều phát âm và ngắt câu khác biệt, cứ ngậm cái âm cuối của chữ “Yến” một lúc rồi mới tiếp tục gọi “Thời Tuân”. Cái kiểu ngắt ấy vô cớ tạo ra cảm giác thân mật, thậm chí nghe cứ như đôi bạn thân lâu năm không bằng, không gọi đầy đủ tên mà chỉ gọi –

Thời Tuân.

Yến Thời Tuân rùng mình, nổi da gà khắp cánh tay.

Cậu không thèm đáp lời trợ lý đạo diễn mà quay sang đặt pho tượng thần bị hư hại trở lại bệ thờ đã được dọn dẹp sạch sẽ. Mấy ngón tay thon dài thoăn thoắt lau bụi, gỡ mạng nhện, giúp pho tượng dần lộ ra hình hài ẩn mình bấy lâu.

Khi nhìn rõ pho tượng, Yến Thời Tuân ngẩn người.

Đây là một pho tượng thần vô cùng hiền từ.

Mày mắt cụp xuống, môi khẽ mỉm cười, vai và dáng tay đều mềm mại uyển chuyển toát lên hình ảnh một nữ thần dịu dàng nhân hậu. Còn cái pho tượng thần dát vàng to đùng ngoài kia thì mặt mày cau có hung tợn, khác một trời một vực với pho tượng này.

Không giống làm tượng mới để thay thế tượng cũ, mà là có thần mới nên bỏ rơi thần cũ thì đúng hơn.

“Yến Thời Tuân, cậu có trong đó không?” Ngoài đại điện, trợ lý đạo diễn thấy Yến Thời Tuân không đáp thì gọi to.

“Có.”

Yến Thời Tuân cau mày từ phía sau tượng thần bước ra đã thấy người đàn ông cao lớn đứng ngoài cửa điện nhưng không thèm đặt chân vào dù chỉ nửa bước. Nhác thấy bóng dáng Yến Thời Tuân, người đàn ông vẫn luôn đội mũ lưỡi trai che mặt mới ngẩng đầu lên nhìn cậu.

Tiếng cười nói mơ hồ từ phía phòng trọ vọng ra, người đàn ông đứng ở ngưỡng cửa cao ngất ngay cả góc áo cũng không chạm vào không khí trong điện, như thể kiêng kỵ hoặc cực kỳ ghét bỏ nơi này. Hắn đứng đó, im lặng như một bức tường sững trong màn đêm, chút ánh sáng mờ ảo làm lu mờ khuôn mặt hắn chỉ có đường nét góc cạnh trên khuôn mặt nghiêng ẩn hiện.

“Tìm tôi có chuyện gì?” Thấy hắn im ru, Yến Thời Tuân lạnh lùng hỏi: “Nếu gấp thì anh vào hẳn trong mà tìm tôi, cứ gọi tên tôi như đang gọi hồn thế chi.”

“Đêm hôm khuya khoắt ở nơi hoang vu gọi tên người ta bừa bãi, anh nghĩ tôi sẽ trả lời chắc?”

Người đàn ông khó hiểu: “Tại sao không trả lời?”

Yến Thời Tuân vừa vo tròn cái khăn tay đã bẩn trong lòng bàn tay, vừa bước về phía cửa chính điện chỗ người đàn ông đang đứng: “Hồi nhỏ người lớn nhà anh không kể chuyện dân gian cho anh nghe à? Hay là anh chưa học hết chín năm giáo dục bắt buộc? Sói hóa người gọi tên dụ quay đầu, mỹ nhân rắn leo tường dụ ăn tim, chưa từng nghe à?”

“Anh chả nói anh là ai, cứ thế gọi thẳng tên tôi, làm sao tôi biết đứng sau lưng tôi là người hay ma.”

Yến Thời Tuân hừ một tiếng, nhấc chân bước ra khỏi đại điện.

Ngay lập tức, không khí mát lạnh sau mưa sảng khoái ập đến khiến Yến Thời Tuân bỗng cảm thấy dễ thở hơn hẳn. Bên tai nghe thấy tiếng ồn ào của khách mời cùng chút hơi ấm tỏa ra. Trời mưa to vậy mà bên ngoài còn mát mẻ dễ chịu hơn trong đại điện sao? Yến Thời Tuân thắc mắc quay đầu, định bước vào thử xem cảm giác có khác không.

“Chín năm giáo dục bắt buộc…” Trong giọng trợ lý hiếm hoi pha chút băn khoăn: “Đó là gì vậy? Với lại tôi chưa từng thấy thứ gọi là mỹ nhân rắn bao giờ.”

Yến Thời Tuân: “?”

Cậu lập tức quên bẵng chuyện quay vào đại điện, đứng hình toàn tập nhìn người đàn ông đang nghiêm túc chờ đợi câu trả lời. Trông hắn không giống cố tình cà khịa mà thật sự đang đợi Yên Thời Tuân giải đáp. À ha, ấy thế mà không biết chín năm giáo dục bắt buộc luôn?

“Anh chưa từng đi học hả? Mù chữ à cha nội? Nhìn anh đâu có giống người không biết chữ, chưa học xong tiểu học? Hay tại quê anh ở vùng núi?” Yến Thời Tuân quét mắt nhìn người đàn ông từ trên xuống dưới, ước chừng sức mạnh tiềm ẩn trong cơ thể này, vẻ mặt càng khó hiểu hơn. Cơ bắp cuồn cuộn thế kia đâu giống người ăn không đủ no, sao lại chưa từng đi học chứ?

Yến Thời Tuân chợt nhớ lại thời thơ ấu của mình. Sau khi được sư phụ nhặt về, ông vốn muốn đưa cậu đi khắp nơi, ai dè mấy chú cán bộ nhà nước cứ hễ gặp là khuyên con nít thì phải đi học, phải được hưởng chín năm giáo dục bắt buộc. Sư phụ cậu đành tiếc nuối, khi cậu lớn hơn một chút thì gửi cậu đến trường. Dù sau này khi đi học, sư phụ vẫn thường xin phép cho cậu nghỉ học để dắt cậu đi bắt ma trừ tà.

Cái người hồi nhỏ luôn sống kiểu rày đây mai đó như cậu còn được khuyên đi học thì sao cái tên trợ lý đạo diễn này lại không?

“Tiểu học… giống như Thái Học* à?” Người đàn ông bối rối chớp mắt, cuối cùng hiểu ra: “Tôi biết chữ, từng đọc sách rồi, chỉ là đi học hơi sớm nên không giống bây giờ lắm.”

*Thái Học: cấp học cao nhất thời phong kiến Trung Quốc, tương đương với đại học ngày nay

Yến Thời Tuân: “… Không sao, anh chưa đi học tôi cũng có nói gì đâu, không cần phải che giấu như vậy.”

Nom cái mặt là biết anh cỡ hơn hai mươi tuổi, đi học sớm thì sớm được đến đâu chứ? Chính sách giáo dục cũng na ná nhau thôi mà.

Thôi thì, vì sĩ diện của hắn, Yến Thời Tuân không truy hỏi nữa mà đổi chủ đề: “Anh tìm tôi có việc gì?”

Người đàn ông: Cứ cảm thấy mình bị hiểu lầm nhưng cái này khó giải thích quá. Nếu hắn nói mình từng đi học từ hơn một nghìn năm trước chắc sẽ dọa cậu thanh niên trừ ma ở dương gian này sợ chạy mất dép…

“Bên kia chuẩn bị ít đồ ăn định làm bữa tối, thấy cậu không có ở đó nên tôi ra tìm cậu.” Người đàn ông ăn ý bỏ qua chủ đề vừa rồi: “Buổi tối chắc cậu chưa ăn gì, người sống cần ăn cơm mà.”

Yến Thời Tuân liếc xéo người đàn ông: “Từ trước tôi đã muốn hỏi anh rồi, sao anh cứ gọi tôi là ‘người sống’ thế? Bộ anh là người chết hả?”

Người đàn ông khựng lại, rồi điềm nhiên đáp: “Tiếng địa phương chỗ tôi đều gọi như vậy. Nếu cậu nghe không quen thì tôi gọi theo cách của cậu.”

“Tôi đã đi qua rất nhiều tỉnh, đây là lần đầu nghe có tiếng địa phương gọi người khác là ‘người sống’ đấy. Quê anh ở đâu vậy?”

Để tôi xem thử, tỉnh nào mà thoát được chính sách phổ cập giáo dục?

“Quê tôi nhỏ lắm, chắc cậu không biết đâu.”

“…”

Bất luận Yến Thời Tuân hỏi gì, người đàn ông cũng bình tĩnh trả lời cho qua. Dù Yến Thời Tuân cảm thấy hắn có điều giấu giếm nhưng không tìm được bằng chứng, đành nghi ngờ nhìn chằm chằm muốn moi chút manh mối từ biểu cảm khuôn mặt hắn.

Lúc hai người đi khá xa, không khí gần như đông đặc trong đại điện ban nãy mới dần lưu chuyển trở lại.

Trên tường, hàng trăm hàng nghìn đôi mắt trong bóng tối lặng lẽ dõi theo bóng lưng Yến Thời Tuân rời đi.

Im lặng… không một tiếng động…

“Ông có số điện thoại của Yến Thời Tuân không!”

Trong Hải Vân Quan, Mã đạo trưởng chẳng thèm để ý đến Tống đạo trưởng hay khách đang đến thăm. Ông gõ cửa rầm rầm rồi đẩy cửa xông vào, sốt ruột túm lấy đạo bào của Tống Đạo trưởng hỏi dồn: “Lúc ông ở núi Quy, nó có cho ông số điện thoại nào không? Tài khoản mạng xã hội, tài khoản cá nhân, điện thoại… Cái gì cũng được!”

Tống Nhất đạo trưởng hiếm khi thấy ông bạn đồng môn này cuống cuồng như vậy nên lấy làm lạ.

“Ông tìm Yến sư đệ làm gì? Nó đang quay chương trình mà, có chuyện gì thì đợi nó quay xong rồi tìm cũng được chứ. Gấp gì vậy?”

Nghe thấy từ “chương trình”, Mã đạo trưởng cười khẩy, hỏi ngược lại: “Ông có biết cái chương trình livestream xui xẻo đó bây giờ đang quay ở đâu không?”

“?”

“Đỉnh Dã Lang.” Mã đạo trưởng bình tĩnh bổ sung một câu: “Tối nay đỉnh Dã Lang bắt đầu mưa, tức là, họ đang đi đến đỉnh Dã Lang vào ngày mưa.”

Tống đạo trưởng: “!!!”

Lần này đến lượt Tống đạo trưởng không giữ được bình tĩnh.

Ông ta lập tức bật dậy khỏi ghế, chẳng thèm để ý hình tượng đạo trưởng điềm tĩnh cao thâm mới xây dựng trước mặt khách “xoảng!” một tiếng vỡ tan tành, vội vàng chạy ra ngoài phóng như bay đến phòng của sư phụ mình.

Khách: “?”

Người khác có thể không rõ thân phận của Yến Thời Tuân, chứ Tống đạo trưởng thì rõ mồn một. Sư phụ ông là Lý đạo trưởng, cao nhân trấn phái của Hải Vân Quan, cũng thuộc hàng đạo trưởng lớn tuổi nhất nơi đó rồi. Mặc dù đạo gia không nói tuổi thọ, không ai biết Lý đạo trưởng năm nay chính xác bao nhiêu tuổi nhưng Tống Nhất nhẩm tính thì chắc cũng cỡ trăm tuổi có dư.

Sư phụ của Lý đạo trưởng có rất nhiều đệ tử, trong đó có một người nhỏ nhất tên là Lý Thừa Vân, là người có thiên phú cao nhất được ghi nhận trong lịch sử Hải Vân Quan. Sư phụ của họ thậm chí còn có ý định để Lý Thừa Vân tiếp quản Hải Vân Quan. Nhưng có lẽ cái tên Lý Thừa Vân quá hợp với ý đạo nên ông giống hệt cái tên mình, không bao giờ ở một nơi quá lâu mà cưỡi mây du ngoạn bốn phương. Thậm chí trong mấy chục năm qua, tất cả các đạo sĩ trên dưới Hải Vân Quan đều không ai nhìn thấy bóng dáng Lý Thừa Vân. Ngay cả Lý đạo trưởng cũng chỉ đoán người sư đệ nhỏ nhất, thân thiết nhất của mình vẫn còn sống nhưng cụ thể ở đâu và làm gì? Thì chịu.

“Sư phụ!” Tống Nhất đạo trưởng một tay đẩy cửa phòng lão đạo trưởng, vội vàng nói: “Sư phụ, Yến sư đệ lên đỉnh Dã Lang rồi!”

Lời còn chưa dứt, một thanh kiếm gỗ đào bay vèo tới. Tống Nhất đạo trưởng giật mình suýt thì tránh không kịp. Lão đạo trưởng trong bộ dạng đã đi ngủ, mặt mày hầm hầm bước ra khỏi phòng: “Sắp đến giờ Tý rồi mà còn chưa ngủ, con muốn làm gì? Ngồi tu tiên giữa sân hả?”

Tống đạo trưởng lúc này mới bừng tỉnh, ờ ha, cũng trễ lắm rồi, đáng lý nên dưỡng thần đi ngủ từ lâu. Ông ta tự dưng thấy hơi chột dạ như học sinh bị giáo viên bắt quả tang làm chuyện xấu, ho khan một tiếng rồi vội vàng nói: “Không phải chuyện của con, sư phụ, là chuyện của Yến sư đệ. Không phải thằng bé đi du lịch cùng chương trình đó sao, bây giờ họ… đang ở đỉnh Dã Lang vào ngày mưa.”

Nghe tới đây, lão đạo trưởng hít một hơi lạnh: “Đồ đệ của Cẩu Đản lên đỉnh Dã Lang làm gì? Điên rồi à!”

“Ta thấy đứa trẻ này cũng đâu phải cái tướng số xui xẻo bẩm sinh đâu, sao lần trước đi núi Quỷ, lần này lại tót lên đỉnh Dã Lang thế?” Lão đạo trưởng vội vàng kéo đạo bào bên cạnh, khoác lên rồi đi ra ngoài: “Các con không nhắc nhở nó đỉnh Dã Lang không được tùy tiện tới sao? Làm sư huynh kiểu gì vậy!”

Mã đạo trưởng: Con cũng muốn nhắc lắm chứ, nhưng mà Yến sư đệ có cho con cơ hội nào đâu.

Mấy người xúm lại, lúc này mới chợt phát hiện hóa ra không ai trong số họ có số điện thoại của Yến Thời Tuân. Chỉ biết một tài khoản cá nhân thôi, nhưng mấy tin nhắn mà Mã đạo trưởng gửi đi vẫn hiển thị chưa đọc.

Dưới ánh mắt chết chóc đầy áp lực của lão đạo trưởng, Tống đạo trưởng cũng thử gọi điện cho đạo diễn chương trình Trương Vô Bệnh nhưng ngoài tiếng “tút tút” từ ống nghe thì không ai bắt máy cả. Gọi sang mấy số khác của những người lần trước có để lại thông tin liên lạc cũng đều bặt vô âm tín.

Lão đạo trưởng thấy vậy, lập tức xắn tay áo đích thân gieo quẻ, tính từng con số một, cuối cùng cũng mò ra được số điện thoại của Yến Thời Tuân.

Thế nhưng khi Tống đạo trưởng gọi đi…

“Số thuê bao quý khách vừa gọi hiện đang nằm ngoài vùng phủ sóng hoặc tắt máy. Xin quý khách vui lòng gọi lại sau.”

Không khí trong phòng lập tức trầm xuống đến mức nghẹt thở. Mấy vị đạo trưởng nhận ra rất có thể đoàn chương trình lại gặp vấn đề gì đó.

Mã đạo trưởng lắc đầu thở dài: “Đỉnh Dã Lang, lại còn là đỉnh Dã Lang vào đúng ngày mưa nữa chứ.”

Đối với người dân bình thường, đỉnh Dã Lang chỉ là một địa điểm check-in nổi tiếng gần đây nhờ bầu trời đêm cực kỳ trong trẻo và đẹp mắt, thu hút rất nhiều dân mê cắm trại và nhiếp ảnh đến chụp choẹt, tận hưởng phong cảnh thiên nhiên. Nhưng đối với những người trong giới này, đỉnh Dã Lang lại là một chốn nặng nề đầy u ám. Nhất là khi trời mưa thì ngay cả những nhân vật cộm cán đã thành danh từ lâu cũng chẳng dám bén mảng đến đỉnh Dã Lang.

Tất cả các loại bùa chú thỉnh thần hỏi thánh và các phương tiện khác mà các đạo trưởng giỏi nhất đều vô hiệu, ngay cả các bà đồng, ông đồng của Miêu Cương cũng không thể triệu hỏi được hồn ma ở đó.

Bởi vì ở đó thần cũng chết, đạo cũng tiêu.

Nơi mà người phàm không thể can thiệp.

Ban đầu đỉnh Dã Lang chỉ là một ngọn núi nhỏ vô danh. Dù rằng quanh đó thỉnh thoảng có sói hoang xuất hiện, phá hoại hoa màu, tha mất vài con gà vịt nuôi thả nhưng chúng hiếm khi hại người. Dân làng cũng vì đất đai màu mỡ, mưa thuận gió hòa mà năm nào cũng thu hoạch mùa màng bội thu, chưa từng có ý định rời khỏi đỉnh Dã Lang. Ngược lại, thường có người từ nơi khác nghe danh “miền đất hứa” này mà tìm đến nương nhờ.

Người dân càng ngày càng đông, quanh đó hơn chục làng đều đông vui nhộn nhịp, người với thú sống chan hòa, một cảnh tượng phồn vinh thịnh vượng.

Cho đến mười mấy năm trước…

Cái cây đầu tiên ở đỉnh Dã Lang bị đốn ngã, nhát cuốc đầu tiên đào xuống lòng đất.

Sự yên bình của đỉnh Dã Lang từ đó chấm dứt.

Đám thanh niên trong làng không còn hài lòng với cuộc sống “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, cũng chẳng mặn mà với số tiền kiếm được sau một năm vất vả cày cấy. Họ bất chấp lời khuyên ngăn của người lớn trong nhà, ký hợp đồng với các ông chủ lớn, các công ty lớn từ bên ngoài, cho phép những người đó mang đi đất đai màu mỡ của đỉnh Dã Lang, chặt hạ những cây cổ thụ quý giá hàng trăm, hàng nghìn năm tuổi. Tiền bạc đổi lấy từ đất và cây cối không ngừng chảy vào túi của những người đầu tiên, các dân làng gần đó thấy vậy thì đỏ mắt, cũng bắt chước tranh giành nhau lôi kéo các ông chủ lớn từ thành phố, bán ngọn núi sau nhà mình cho họ.

Từng gốc cổ thụ bị chặt đổ, phát ra tiếng “rắc” nặng nề rồi đổ sập xuống đất. Những sợi dây đỏ và dải lụa màu sắc từng được buộc trên cây trong các lễ tế Sơn Thần hàng năm cũng rơi rải rác trên đất bị giẫm dưới gót ủng của công nhân, chìm vào bùn đất, phát ra những âm thanh nức nở.

Cứ như tiếng khóc thút thít và tiếng thở dài uất ức của những linh hồn cổ thụ sắp lìa đời.

Nhưng có tiền rồi, người trẻ có thể xây nhà lớn, người già không cần phải lao động vất vả nữa, trẻ nhỏ thì có quần áo mới để mặc.

Dường như mọi người đều rất hài lòng.

Không ai quan tâm đỉnh Dã Lang rốt cuộc sẽ biến thành thế nào. Dù cho ai cũng thấy những dãy núi trùng điệp xanh tươi của đỉnh Dã Lang ngày nào đang trở nên trơ trụi như một vùng chết chóc không sức sống.

Trong làng cũng từng có người già đưa ra lời cảnh báo.

“Sơn Thần sẽ nổi giận đấy! Đất đai màu mỡ dưới chân các người, mùa màng bội thu, sự bình yên không bị bão táp quấy nhiễu tất cả đều là phúc lành mà Sơn Thần ban cho vì lòng tin và sự kính trọng của các người! Mỗi cây mà các người chặt xuống đều là máu của Sơn Thần đang chảy ra đó!”

Thế nhưng đám người trẻ mặc quần áo đẹp, lái xe sang lại chế giễu mắng mỏ: “Lão già sắp chết rồi thì đừng có cản đường làm ăn của người khác! Mấy người cả đời chỉ ru rú ở cái xó xỉnh này chẳng biết gì cái gì cả, thời đại nào rồi mà còn Sơn Thần? Ha ha! Có giỏi thì kêu ông thần đó ra đây đánh tôi đi?”

Ông lão tức đến run rẩy nhưng chẳng thể can ngăn.

Dân làng phát điên vì tiền không hề nhận ra đỉnh Dã Lang đã rất lâu rồi không xuất hiện sói hoang nữa. Thậm chí khi đêm xuống, rừng núi đỉnh Dã Lang tĩnh lặng đến lạ thường cứ như các loài động vật mà ngày xưa lên núi là thấy đều đã chạy mất sạch, không còn giao du với con người nữa.

Các loài động vật trong núi vốn có linh tính, chúng biết những người dân làng từng sống hòa bình với chúng không còn là bạn của chúng nữa. Trong mắt bọn họ hiện tại, chúng chỉ là những bộ lông và miếng thịt có thể đổi ra tiền.

Và rồi một hôm, dân làng đột nhiên phát hiện gà vịt trong sân nhà mình chết sạch. Trời còn chưa tỏ nhưng khắp làng nhà nào nhà nấy đều vang lên tiếng kêu hãi hùng. Tất cả gà vịt trong làng đều chết trong tư thế kỳ dị đáng sợ, máu me cạn khô, mắt đen như hạt đậu trừng trừng nhìn về phía ngôi nhà. Đáng sợ hơn là ánh mắt ấy… còn di chuyển theo bước chân người đi lại.

Ban đầu người dân tưởng là ăn trộm làm bậy, nhưng khi tận mắt chứng kiến cảnh này thì sợ xanh mắt. Có người sợ đến mức quỳ sụp xuống đất, hướng về phía đỉnh Dã Lang lớn tiếng cầu xin Sơn Thần tha thứ, thề sẽ trồng lại những cây đã chặt, cầu xin Sơn Thần đừng nổi giận nữa.

Cũng có người chẳng thèm bận tâm, hôm đó cho gà vịt đã chết vào nồi nấu luôn, chỉ nghĩ do làng bên ghen tị họ giàu nên bày trò, còn rủ rê bạn bè đến nhà ăn uống no say xong sang làng bên trả đũa lại.

Thế nhưng, những người này không bao giờ đi được nữa.

Khi trời sáng, dân làng nhìn thấy đám người ấy lang thang trong làng với đôi mắt vô hồn, miệng lảm nhảm những lời vô nghĩa. Dân làng vội vàng đưa họ đến chỗ bà đồng.

Nhưng mà…

“Sơn Thần dùng thân mình nuôi dưỡng các người, bảo vệ các người bình an, mùa màng bội thu suốt trăm năm, chưa từng giấu giếm sức mạnh. Mỗi lần các người dâng lễ, Ngài đều hóa thành mùa màng trù phú trả về.”

Vẻ mặt của bà đồng nghiêm nghị, mang theo vẻ trách móc: “Nhưng các người không còn kính trọng Sơn Thần nữa, khiến Ngài cạn kiệt linh lực mà chết, vòng tuần hoàn tốt đẹp vốn có đã bị các người cắt đứt. Không còn Sơn Thần nào có thể che chở các người nữa, những con gà vịt đã chết kia chính là bằng chứng rõ nhất cho sự xâm nhập của tà ma.”

Dân làng sợ hãi run rẩy, vội vàng xin bà đồng làm phép trừ tà cho mấy thanh niên bị ma nhập trước.

Mà ngay khi bà đồng đốt lửa chuẩn bị dùng phép hỏa thiêu để xua đuổi tà ma, những thanh niên trước đó còn mê man không ý thức lại đột nhiên cười điên dại, liều mạng lao vào lửa. Nhóm dân làng khác thấy vậy kinh hãi muốn ngăn cản nhưng những thanh niên đó bỗng trở nên khỏe mạnh lạ thường, không ai cản được.

Lửa cháy ngùn ngụt, dù là nước hay bùa chú của bà đồng cũng không thể dập tắt. Cho đến khi tiếng cười của mấy thanh niên dần yếu ớt.

Ngọn lửa tắt ngúm, trong đống tro đen kịt chỉ còn những xác cháy đen như than, chẳng thể nhận ra hình hài.

Nhóm dân làng bị dọa cho mất hồn mất vía, bọn họ cố nén ghê tởm muốn xử lý mấy thi thể kia thì những xác cháy đó đột nhiên lảo đảo đứng dậy. Chúng chậm chạp bò dậy từ tàn tro của ngọn lửa, mỗi lần cử động lại có những mảnh vụn đen rơi ra, cả người triệt để hóa thành than. Sau đó, chúng nhe cái miệng đã cháy đen lộ ra hàm răng trắng hếu bên trong mỉm cười với dân làng khiến ai cũng bỏ chạy tứ tán. Khi họ quay lại kiểm tra thì thấy những xác cháy đó đã biến mất. Còn bà đồng thì ngã vật xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

Chính vào lúc này, Hải Vân Quan được dân làng mời đến. Khi đó Mã đạo trưởng còn trẻ, vừa đặt chân vào ngôi làng xảy ra chuyện đã suýt nôn mửa.

“Tống đạo trưởng, ông chưa từng tới nên không biết đâu.” Trong phòng, Mã đạo trưởng từng trải qua sự việc năm đó, cười khổ: “Cả làng tràn ngập mùi tử khí, khắp nơi đều là những mảnh vụn của mấy cái xác cháy, ngay cả trong chum gạo của dân làng cũng có. Vậy mà những người dân làng đó lại hoàn toàn không cảm nhận được gì, vẫn sinh sống bình thường… Chỗ đó đã không còn là nhân gian nữa rồi.”

“Sơn Thần, đã chết.”

Mã đạo trưởng nói nhỏ. Tuy Tống đạo trưởng đã biết sơ tình hình của đỉnh Dã Lang nhưng đúng là mười mấy năm trước ông ta chưa từng đích thân đến đó, nghe Mã đạo trưởng miêu tả thì mặt cũng biến sắc.

Mã đạo trưởng cười bất lực: “Một nơi không có Sơn Thần che chở, ông biết nó sẽ biến thành gì rồi đấy.”

Tống đạo trưởng biết chứ. Không, phải nói là cái kết quả đó đã hiện rõ trước mắt mọi người rồi.

Tà ma, phản công, báo thù.

Trước đây bị Sơn Thần trấn áp mạnh mẽ bao nhiêu thì sau khi Sơn Thần chết, những tà ma đó sẽ phản công dữ dội bấy nhiêu. Ngay đến khuôn mặt của lão đạo trưởng cũng trở nên nghiêm trọng.

“Khoan đã.”

Mã đạo trưởng đột nhiên kêu lớn: “Khoan đã, không đúng!”

Dưới ánh mắt nghi hoặc của Tống đạo trưởng, Mã đạo trưởng vội vàng lấy chiếc máy tính bảng đang xem livestream chương trình ra đặt mạnh xuống trước mặt hai người, sắc mặt nặng nề hoảng sợ.

Tống đạo trưởng: “Hả? Ý ông là gì?”

“Các khách mời của chương trình vừa rồi đã vào trong miếu Sơn Thần.” Mã đạo trưởng nói nhỏ: “Sơn Thần đã chết, vậy miếu Sơn Thần ở đâu ra?”

“Hay tôi nên hỏi… Đây là miếu của ‘thần’ nào?”

Tống đạo trưởng nghe vậy thì nhìn chằm chằm máy tính bảng. Dưới ống kính, các khách mời đang cười nói vui vẻ dưới ánh đèn ấm áp. Còn Tống đạo trưởng ngoài màn hình lại rùng mình ớn lạnh.

Để lại một bình luận

* Chú ý: Những bình luận vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng sẽ bị xóa kèm quà tặng.